02/06: 27. Tác Ý Và Nghiệp – 28. Tám Thức
Category: Phật Học – Phật học ôn tập-
Posted by: Tbl Đọc: 4674 lần
Bước Vào Cửa Phật
27. TÁC Ý VÀ NGHIỆP – 28. TÁm THỨC
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
Bài 27. Tác ý và nghiệp
Con người ta có sáu căn là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Năm căn đầu thuộc về vật chất (tức là sắc). Căn thứ sáu thuộc về tinh thần, chỉ có tên mà không thấy được (tức là danh). Sáu căn còn có tên là : nhãn căn, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn và ý căn.
Sáu căn ấy ứng với sáu trần là : sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Sáu trần còn gọi là nhãn trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần. Chữ pháp ở đây có nghĩa là những đối tượng của ý : đó là các ý nghĩ, tư tưởng, hồi tưởng, suy tính, tưởng tượng ..
Sáu căn tiếp xúc với sáu trần tương ứng, gây nên sự xúc chạm trong tâm, phát sinh sáu thức tức là sự hay biết, gồm có : nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Sáu căn và sáu trần gọi chung là 12 xứ. Thêm sáu thức vào thì gọi…
… chung là 18 giới.
Sơ đồ sau đây cho chúng ta biết : sắc (sắc trần = hình dạng, màu sắc) duyên với mắt (nhãn căn) làm phát sinh nhãn thức tức sự biết của mắt vv…
Tại sao cần tìm hiểu sáu căn? Vì chúng luôn luôn tiếp nhận các dữ kiện từ môi trường xung quanh, chúng là khởi điểm, chúng là gốc của mọi hoạt động trong cuộc sống của con người.
Mắt tiếp nhận hình ảnh, màu sắc, ta thấy hình ảnh, màu sắc rồi từ đó sinh ra lòng yêu thích hay ghét bỏ. Yêu thích thì nảy ra tham dục, muốn chiếm cho mình. Ghét bỏ thì muốn tránh, muốn diệt … Tương tự với tai, mũi, lưỡi, thân.
Rồi ý tiếp nhận pháp, nảy ra ý tưởng nhanh như điện chớp, óc luôn luôn tính toán, lập kế, bày mưu, tìm lời tranh cãi, kiếm mẹo ăn thua … Rút lại chỉ mong hơn người, cái ta thật là lớn.
Nhưng chúng ta phải hết sức chú ý đến điều này : Khi các trần tác động vào các căn, nói khác đi là các trần duyên với các căn và có sự hay biết (thức) thì các phản ứng của chúng ta tiếp theo sự hay biết đó mới là quan trọng, Các phản ứng ấy gọi là tác ý.
Tác ý của mỗi con người trước một sự việc không giống nhau. Việc này tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố : giáo dục gia đình, giáo dục ở trường, khung cảnh xã hội, ảnh hưởng tôn giáo, phong tục tập quán, thói quen và nghiệp cũ. Điều đáng nói là thói quen.
Do tác ý mà có hành động của thân, khẩu, ý từ đó sinh ra ba nghiệp : thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Đức Phật đã dạy: “Tác ý chính là nghiệp”. Thật là rõ ràng và gọn ghẽ !
Trong Tăng Chi Bộ Kinh (Chương Sáu Pháp, phẩm Đáng được cung kính ), đức Phật dạy rằng :
“ Này các tỳ kheo, hãy thực tập sáu pháp vô thượng. Những gì là sáu?
Mắt thấy sắc, không ưa, không ghét – quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Tai nghe tiếng, không ưa, không ghét – quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Mũi ngửi mùi, không ưa, không ghét – quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Lưỡi nếm vị, không ưa, không ghét – quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Thân chạm xúc, không ưa, không ghét – quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Ý đối với pháp, không ưa, không ghét – quân bình, chánh niệm, tỉnh giác.
Ai thành tựu sáu pháp ấy, xứng đáng cho chư thiên và nhân loại tôn trọng, cung kính, cúng dường, là phước điền vô thượng ở đời ”.
Chúng ta được biết câu Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền nghĩa là: Đứng trước cảnh mà không động tâm thì còn hỏi thiền làm gì, ý nói nếu tu mà đạt được mức đối cảnh vô tâm thì chẳng cần phải học cách tu thiền nữa.
Sáu trần tạo duyên cho tâm chạy lăng xăng. Chạy theo cảnh là tâm động, không chạy theo cảnh là tâm an.. Vậy, muốn hàng phục tâm, thì đừng vướng mắc vào sáu trần, chỉ ghi nhận trung thực trong thái độ buông xả, mà không phán xét, không thêu dệt. Mục tiêu của phép tu này là diệt tham sân si!
Một câu hỏi được đặt ra : tôi sống trong gia đình, trong xã hội, nếu đối cảnh mà cứ vô tâm, thế thì hóa ra tôi không còn cảm xúc gì nữa, giống như cỏ cây gỗ đá mất! Vô tâm không có nghĩa là không có tâm, vô tình, mặc kệ, mà là không bị dính mắc, không bị lôi cuốn vào, không chạy theo.
Tu đến mức vô tâm ấy thì không phải là gỗ đá đâu, mà đầy từ bi hỷ xả. Bậc thấp thì có tác ý nhưng là tác ý hoàn toàn thiện. Nghiệp gây ra là nghiệp thiện. Bậc cao thì tác ý do từ bi hỷ xả. Đó là các bậc la-hán không còn gây nghiệp nữa.
Có một thắc mắc là: khó thực hành quá, tôi không theo được! Chúng ta phải thú nhận: thật là khó, bao nhiêu thứ chằng chịt trói buộc chúng ta mất rồi, vùng thoát ra khó nổi! Tuy vậy, đã tu là phải tập, nói tập là nói lâu dài, kiên nhẫn. Sách nói : tu nhiều kiếp.
Xin đề nghị: đứng trước cảnh thì chưa nên phản ứng ngay, chưa nên có tác ý ngay. Ta tự hỏi : cái gì đây, thiện hay ác? Rồi sau mới quyết định.
Một bà già mất con dao, nghi cho thằng bé nhà hàng xóm. Từ đó, bà ta ghét nó, thấy nó gian giảo, hư đốn. Một hôm, dọn bếp, bà ta tìm thấy con dao. Biết rằng mình nghi oan cho thằng bé, bà lại thấy nó ngoan ngoãn, đáng yêu … Tác ý của bà già vội vàng quá, thiếu suy xét. Rút kinh nghiệm: trước cảnh, lắm khi tác ý của chúng ta sai lầm. Phản ứng của chúng ta căn cứ trên những thiếu sót hay nhửng sai lầm.
Năng đi chùa, chịu tu tập, chăm học kinh nghe giảng, chúng ta dần dần sẽ trầm tĩnh hơn và hy vọng một ngày kia sẽ đối cảnh vô tâm. □
(Dựa theo bài Đối cảnh vô tâm ngày 27-8-05 của Sư Thiện Hiền).
(Hình trên : Ngôi chùa ở Patan – Nepal . – NN sưu tầm )
BÀI 28. TÁM THỨC
Ngay từ khi còn ngồi ở bậc tiểu học, chúng ta đã được thày cô dạy rằng: con người có ngũ quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, chân tay ; mỗi bộ phận chủ một việc, mắt để nhìn, tai để nghe, mũi để ngửi, lưỡi để nếm và chân tay để sờ mó (nay ta thay chữ chân tay bằng chữ da, và Phật học thì dùng chữ thân). Thế thì bộ phận nào lo về những ý nghĩ, những tư tưởng? Phật giáo nói đến cái bộ phận thứ sáu để lo việc ấy, gọi là ý, nó vô hình.
Con mắt là một căn, nó có đối tượng là hình tướng và mầu sắc, gọi là trần. Mắt gặp một vật, nhờ một cái gì đó mà người ta gọi là thức – ở trường hợp này, đó là nhãn thức – ta mới biết rằng có vật ấy …
Bây giơ, xin giới thiệu một số chữ:
GIÁC QUAN CĂN TRẦN THỨC CÔNG DỤNG
Thị giác Mắt (nhãn căn) Sắc Nhãn thức THẤY
Thính giác Tai (nhĩ căn) Thanh Nhĩ thức NGHE
Khứu giác Mũi (tị căn) Hương Tị thức NGỬI
Vị giác Lưỡi (thiệt căn) Vị Thiệt thức NẾM
Xúc giác Thân (thân căn) Xúc Thân thức CẢM
Sắc, thanh, hương, vị, xúc cũng được gọi là sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần.
Ta đã nói rằng ý là vô hình. Căn của nó cũng vô hình, tên là ý căn.
Đối tượng của mắt là sắc (hình tướng, màu sắc), đối tượng của tai là tiếng (âm thanh) vv… , đối tượng của ý là pháp. Pháp là một chữ rất rộng nghĩa, ở đây pháp nghĩa là những thứ mà mình nhớ, mình nghĩ, là bóng dáng của năm thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc còn lưu lại trong ta, cộng thêm vào những hình ảnh, ý nghĩ do ta tô điểm thêm …
Khi mắt ta đặt trước một vật nào đó, ta nói rằng nhãn căn gặp nhãn trần hay là nhãn căn duyên nhãn trần. Do duyên này mà nảy sinh nhãn thức. Nhờ có nhãn thức, ta mới biết rằng cái vật đó hiện hữu, nó có ở đó …
Đáng nhớ: Căn duyên trần → Thức
Thân (da) gặp đối tượng của nó mà ta gọi là xúc, nhờ thân thức mà ta có cảm giác nóng lạnh, no đói … Nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức là năm thức.
Ý thức là thức của ý căn, ý thức là thức thứ sáu chủ về sự biết, về tri giác, nó phân biệt được sự việc và ý nghĩ, tư tưởng … mà ta gọi là pháp hay pháp trần. Cái hay của ý thức là cảm thụ được những thứ vô hình như y ùnghĩ, trong khi ấy thì năm thức kia chỉ “biết” những thứ hữu hình và cục bộ.
Ý thức có khả năng suy luận, phân tích, tổng hợp … Nó hỗ trợ cho năm thức trước. Thày vẫn mắng trò là đãng trí, rõ ràng có mở sách ra, rõ ràng có đọc, rõ ràng có thấy chữ, thế mà chẳng hiểu gì cả; chẳng qua là vì tuy nhãn căn có gặp nhãn trần, nhãn thức có hoạt động nhưng ý thức “đi chơi” mất. Ý thức như vậy là có công lắm, nhưng nó cũng có tội, nó chỉ có công khi đề nghị việc thiện, và nó mang tội khi đề nghị việc bất thiện, việc ác.
Chúng ta đã nhấn mạnh rằng ý thì vô hình, ý căn cũng vô hình, tên là mạt-na hay mạt -na-thức, đây chính là thức thứ bảy. Mạt -na có nhiệm vụ cân nhắc, so đo, tính toán … Cái đáng nói là mạt na thường quyết định theo thói quen, vì thế nó hay bảo thủ, bảo thủ mãi rồi thành ra cố chấp. Khi thói quen “mọc thành rễ ra” rồi thì nó trở thành kẻ chỉ huy! Nói chuyện hút thuốc lá chẳng hạn. Do giáo dục gia đình và học đường, khi người kia gặp điếu thuốc (mắt thấy, mũi ngửi..) thức thứ sáu là thức phân biệt đưa ra đề nghị không nên hút. Nhưng khi anh ta đã nghiện (thói quen) thì thức thứ bảy tính toán làm vui lòng cái ngã của anh ta, nên anh ta cứ hút! Mỗi khi có xung đột giữa thức thứ sáu và thức thứ bảy thì thường thường người ta theo thức thứ bảy. Thêm nữa, mạt-na chấp ngã rất nặng nề, nó nhận thức thứ tám làm “cái ta”, ích kỷ, tự ái, ghen tỵ … từ nó mà ra. Nhưng cũng phải nhận rằng nó bảo vệ mạng sống của con người! Một người đang ngủ, ta gãi nhẹ vào bàn chân, người đó rụt chân lại. Đó là do mạt-na làm việc!
Còn một thức nữa là thức thứ tám, tên là bát thức hay a-lại-da-thức, nói ngắn là a-lại-da, phiên âm từ chữ phạn alaya. Khi ta làm gì, nói gì, nghĩ gì (một cách hữu ý chứ không phải vô tình) thì ta đã gieo nhân bằng thân, khẩu, ý. Những nhân này là nghiệp nhân( sẽ có nghiệp quả trổ ra theo đúng luật nhân quả), đó là những hạt giống (chủng tử) vô hình, chứa trong một cái kho vô hình , kho này chính là a-lại-da. Vì thế a-lại-da thức còn có tên là tạng thức (tạng = kho). Nó chứa chất các chủng tử tốt, xấu, không tốt không xấu, và giúp chúng lớn lên, thay đổi đi, trở thành quả nên nó có tên là chủng tử thức hay dị thục thức (dị = khác, thục = chín).
Người ta cho rằng khi một người lên bàn mổ, bị đánh thuốc mê thì bảy thức đầu “ngủ” mất, chỉ còn có thức thứ tám điều khiển cơ thể người đó mà thôi.
Thức thứ bảy (mạt-na thức) được gọi là truyền tống thức vì lý do sau này: nó truyền những hình ảnh do ý thức đưa vào cất trong a-lại-da, sau sẽ lấy từ đó ra mà tống trở lại. Hơn nữa, những gì thuộc nội giới không thể nhờ năm thức đầu cung cấp nên ý thức phải dựa vào mạt-na. Mạt-na thức là trung gian giữa hai thế giới nội ngoại vậy.
Đạo hữu Hiển Mật đã viết trong một bài nghiên cứu về duy thức học như sau: “Thức thứ sáu (ý thức) và thức thứ bảy (mạt-na thức) thực sự lãnh đạo thân thể chúng ta. Trong lúc thức thứ sáu mải mê kiểm soát những động tác mới lạ và cố ý, thì thức thứ bảy lo lắng phối hợp những sinh hoạt quen thuộc và phản xạ mà đặc biệt là việc bảo tồn mạng sống của chúng ta. Khởi đầu, tất cả mọi hành động của chúng ta đều do thức thứ sáu sắp đặt và đôn đốc. Nhưng khi được lặp đi lặp lại nhiều lần đến độ trở thành thói quen hay phản xạ thì những động tác này sẽ rơi vào phạm vi kiểm soát của thức thứ bảy… Thức thứ tám là trung tâm tàng trữ hạt giống của các pháp, nó giúp các hạt giống phát triển, thay đổi, chín mùi để thích ứng với nhau, trước khi phát cho thức thứ bảy đem ra sáu thức đầu để tạo sự hiện thực”.
Vài danh từ : Theo đạo hữu Hiển Mật thì: Năm thức đầu gọi chung là liễu cảnh thức vì có thể phát hiện trần cảnh. Thức thứ 6 = ý thức = minh liễu thức = phân biệt thức. Thức thứ 7 = ý căn = mạt-na-thức = mạt-na = tư lường thức = chấp ngã thức = truyền tống thức. Thức thứ 8 = bát thức = đệ bát thức = tạng thức = hàm tàng thức = chủng tử thức = dị thục thức = tiếp liệu thức = căn bản thức = nguyên thần thức. Nhờ đạo hữu Hiển Mật tóm tắt, ta biết rằng:
Năm thức đầu là trung tâm liên lạc và công tác.
Thức thứ sáu là trung tâm kiểm soát và kế hoạch.
Thức thứ bảy là trung tâm quyết định và điều hành.
Thức thứ tám là trung tâm tồn trữ và tiếp liệu.
Học nhiều danh từ như vậy chắc nhức đầu, nhưng việc chính của chúng ta ở đây là áp dụng vào việc tu hành.
Thứ nhất, thân khẩu ý luôn luôn gây nghiệp, các nghiệp-nhân tích lũy vào trong tạng thức và lớn dần lên đợi trổ quả, nhân nào quả đó, vậy chúng ta nên liệu sao cho các nghiệp-nhân đa số là nhân lành hay hơn nữa, tất cả đều là nhân lành.
Thứ nhì, đừng gây nhiều thói quen, thói quen khó bỏ lắm, cứ lấy việc nghiện ngập rượu chè ma túy mà làm thí dụ. Thói quen ảnh hưởng lớn đến cận tử nghiệp tức là nghiệp khi sắp chết, hướng thần thức về cảnh giới mới. Nhất là người tu hành, phải tránh rất nhiều thứ về thân khẩu ý (giữ giới), cuộc sống thanh đạm, tư tưởng trong sạch để huân chủng tử lành vào a-lại-da càng nhiều càng hay. Đừng tham đắm bất cứ cái gì dù rằng bằng tư tưởng, nhân ấy gieo vào a-lại-da đợi lúc thành quả. Cần tập trung tư tưởng đuổi hết những ý nghĩ xấu, những tham đắm, những cuồng vọng, những dự tính tàn ác…
Thứ ba, nên nhớ rằng chính a-lại-da mang cái nghiệp sang kiếp khác, tùy nghiệp mà vào cảnh giới mới, cho nên người Phật tử bận rộn hay chậm chạp như chúng ta cần phải niệm Phật luôn luôn. Nói ngắn thì đức Di-Đà và thánh chúng sẽ tới đón khi lâm chung; nói theo điều chúng ta mới học đây thì niệm Phật là để huân (huân nghĩa là ướp) những chủng tử lành vào a-lại-da, huân liên tục, huân hoài hoài để a-lại-da chứa đầy thiện niệm, giảm hay triệt hết ác niệm, tà niệm và tạp niệm. Lúc lâm chung, cái nghiệp được “nhẹ nhàng”, cái nghiệp được “trong sạch”; nhân nào quả ấy, kiếp mới nhẹ nhàng, trong sạch, được về cõi tịnh của đức Phật A-Di-Đà.
Ai hỏi rằng lúc chết rồi thì cái gì đi đầu thai, chúng ta trả lời ra sao? Trong đạo Phật, chúng ta dùng chữ thần thức (a-lại-da) mà không dùng chữ hồn, nếu dùng chữ hồn thì phải nhớ rằng nó vô thường chứ không bất biến và vĩnh cửu; chúng ta dùng chữ tái sinh và tránh chữ đầu thai vì chữ đầu thai mang cái ý một linh hồn chuyển từ thân xác này qua thân xác khác. Nếu có thích dùng chữ đầu thai theo thói quen thì phải nhớ rằng nghiệp lực rất mạnh đẩy a-lại-da vào cảnh giới mới. Vào cảnh giới nào thì sanh ra trong cảnh giới đó.
Tái sinh thành người thì a-lại-da nương vào một cặp cha mẹ; ba thứ hợp thành bào thai (chứ không phải chỉ có hai yếu tố cha, mẹ là đủ) …
Vãng sanh tịnh độ thì “hoa nở thấy Phật” tức là sanh từ cái hoa sen trong ao thất bảo ở miền Cực Lạc. Vì thế nói “hoa sen là cha mẹ”. Tới đó tu thêm chứ chưa thành Phật ngay được, mà không phải tất cả như nhau vì có chín phẩm, mỗi phẩm có nhiều bậc …
Đầu đề này khó quá, e rằng có nhiều sai lầm, tôi xin sám hối. Kính chúc quý đạo hữu niệm Phật chuyên cần và nhất tâm để sau này “hoa khai kiến Phật”. □
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
“Bước Vào Cửa Phật” – Book 1
Paid Links