08/07: Tạng Thư Sống Chết- Phần Một:Sống-Ch. 6 (tiếp theo và hết)
Category: Tôi Tìm Hiểu Đạo Phật
Posted by: Tbl Đọc: 4645 lần
TẠNG THƯ SỐNG CHẾT PhầN Một: SỐNG
CH 6: Tiến hóa;Tái sinh; Nghiệp (tiếp theo và hết)
TRÁCH NHIỆM
Tôi vẫn thường xúc đông về sự xác nhận của những báo cáo về kinh nghiệm cận tử, vì nó cho thấy rõ ràng sự thật về nghiệp. Một trong những yếu tố chúng của kinh nghiệm cận tử – một yếu tố đã gợi nhiều suy nghĩ – là “sự thấy lại toàn cảnh cuộc đời.” Hình như rằng những người trải qua kinh nghiệm này không những thấy lại những chi tiết sống động nhất của cuộc đời đã qua, mà còn có thể chứng kiến những ẩn ý trọn vẹn nhất của những gì họ đã làm. Quả thế, họ kinh quá toàn thể những hậu quả hành động của họ trên người khác, và tất cả những cảm giác mà họ đã khơi dậy trong người khác, có thể là rất kinh khủng.
“Mọi sự trong suốt cuộc đời trải ra trước mắt tôi. Tôi hổ thẹn vì nhiều chuyện tôi đã kinh quá, vì lúc đó dường như tôi có một cái biết khác… Không những tôi thấy lại những gì tôi đã làm, mà…
… còn thấy ảnh hưởng việc làm ấy trên người khác… Tôi nhận ra rằng ngay những ý tưởng của ta cũng không mất.
“Cuộc đời tôi trải ra trước mắt tôi… mọi cảm xúc tôi đã từng có trong đời, tôi đều cảm thấy. Và mắt tôi chỉ cho tôi thấy cái căn bản là những cảm xúc ấy đã ảnh hưởng đến đời tôi như thế nào. Đời tôi đã làm gì bấy nay để ảnh hưởng đến những cuộc đời người khác…
“Tôi chính là những người mà tôi làm thương tổn, và tôi chính là người mà tôi làm sung sướng.
“Đấy là một sự sống lại mọi ý nghĩ tôi đã nghĩ, mọi lời tôi đã nói, mọi việc tôi đã làm; cùng với hậu quả của từng ý nghĩ, lời nói, hành vi của tôi đối với mọi người và bất cứ người nào ở trong tầm ảnh hưởng tôi, dù tôi có biết họ hay không…; cộng thêm hậu quả của mỗi ý nghĩ, lời nói, và hành động tôi đối với thời tiết, cây cối, loài vật, đất, nước, lửa, gió.”
Tôi nghĩ rằng những chứng cứ này đáng được xem xét thực nghiêm túc. Chúng sẽ giúp tất cả chúng ta nhận chân được những hành ẩn của hành động, lời nói và ý nghĩ của chúng ta, và buộc chúng ta trở nên có trách nhiệm. Tôi đã để ý rằng nhiều người cảm thấy bị đe dọa trước thực tại về nghiệp, vì họ bắt đầu hiểu được họ không thể thoát khỏi định luât tự nhiên của nó. Có nhiều người tuyên bố họ coi thường nghiệp, nhưng tận tâm để, họ vẫn có những hoài nghi sâu xa về sự phủ nhận của họ. Ban ngày họ có thể hành động hoàn toàn coi khinh đạo đức, nhưng khi một mình ban đêm, tâm họ thường u ám và giao động.
Cả Đông lẫn Tây đều có những lối đặc biệt đưa cái cách họ hiểu về “nghiệp” ra để tránh né trách nhiệm. Ở phương đông người ta dùng nghiệp để làm cái cớ khỏi giúp đỡ người khác, bảo rằng, người nào khổ là do cái “nghiệp” của họ. Trong thế giới “tư tưởng tự do” ở phương tây, thì ngược lại, những người Tây phương tin vào nghiệp có thể nhạy cảm và cẩn thận quá lố, và bảo rằng thực sự nếu ta giúp người nào tức là can thiệp vào cái nghiệp của họ, một cái gì họ phải tự lo liệu lấy cho mình. Thật là một cách né tránh phản lại lòng nhân đạo! Có lẽ ta nên cho rằng cái nghiệp của chúng ta là tìm cách giúp đỡ họ. Tôi biết nhiều người giàu có: Tài sản họ có thể tàn phá họ, khi họ làm tăng thêm thói ích kỉ và lười biếng; nhưng họ cũng có thể tóm lấy cơ hội mà tài sản đem lại để giúp đỡ người khác, và khi làm thế, giúp đỡ chính họ.
Đừng bao giờ quên rằng chính qua hành động, lời nói và ý nghĩ, mà ta có quyền chọn lựa. Và nếu ta chọn lựa, ta có thể chấm dứt đau khổ và nguyên nhân đau khổ, và giúp cho tiềm năng chân thực của ta, Phật tính, thức dậy trong ta. Chừng nào Phật tính này hoàn toàn tỉnh thức, chừng nào chúng ta được giải thoát khỏi vô minh và hòa nhập với tâm giác ngộ bất tử, thì ta mới có thể chấm dứt vòng sống chết. Như vậy, giáo lý dạy ta, nếu ta không chịu đảm nhận toàn trách nhiệm cho chính mình trong đời hiện tại, thì sự đau khổ của chúng ta sẽ tiếp tục dài dài không những một vài đời mà hàng ngàn đời.
Chính nhận thức nghiêm trọng này đã làm cho những người theo Phật xem những đời sau còn quan trọng hơn cuộc đời này, vì còn có nhiều điều chờ đợi chúng ta trong tương lai. Cái thấy trường-kì ấy chủ động lối sống của họ. Họ biết rằng nếu chúng ta vì một đời này mà không nghĩ gì đến tương lai vô tận thì cũng giống như điên rồ đem tất cả tiền dành dụm được cả đời vào một cuộc rượu duy nhất, không cần biết hậu quả.
Nhưng nếu chúng ta tuân theo luật nhân quả và đánh thức thiện tâm, lòng từ bi trong ta, nếu chúng ta thanh lọc dòng tâm thức và dần dần khơi dậy trí tuệ của tự tính, thì chúng ta có thể thành một con người đúng nghĩa, và cuối cùng sẽ giác ngộ.
Albert Einstein nói:
– Một con người là một phần của toàn thể vũ trụ, một phần được giới hạn trong thời-không. Nó tự xem mình, những tư tưởng cảm giác của mình, như là cái gì tách biệt với toàn thể – đấy là một loại ảo tưởng của tâm thức. Ảo tưởng này là một nhà tù giam giữ chúng ta, giới hạn chúng ta vào những dục vọng riêng, và chỉ yêu mến vài người gần chúng ta nhất. Nhiệm vụ chúng ta là phải giái thoát mình khỏi ngục tù ấy bằng cách nới rộng vòng bi mẫn để bao gồm tất cả sinh loài và tất cả thiên nhiên trong vẻ đẹp của nó.(1)
TÁI SINH TẠI TÂY TẠNG
Những người nắm vững định luật về nghiệp và đã chứng ngộ, có thể chọn tái sinh nhiều lần để giúp đỡ những người khác. Ở Tây Tạng một truyền thống nhận chân những tái sinh (gọi là tulkus) như thế, được bắt đầu từ thế kỉ mười ba và tiếp tục đến ngày nay. Khi một bậc thầy đắc đạo chết, vị ấy có thể để lại những chỉ dẫn rõ ràng về nơi chốn sẽ tái sinh. Một trong những đệ tử thân tín nhất của vị ấy hay bạn đạo của vị ấy sau đó có thể có một linh kiến hay chiêm bao, nói trước sự tái sanh sắp đến. Trong vài trường hợp, những đệ tử có thể đến một bậc thầy nổi tiếng về tài nhận ra những tulkus, và bậc thầy này có thể có một giấc mộng hay linh kiến giúp ông chỉ đạo sư tìm kiếm. Khi một đứa bé được tìm ra, thì chính bậc thầy này là người xem xét có phải thật hay không.
Mục đích của truyền thống này là nó bảo đảm kí ức tuệ giác của những bậc thầy đã chứng ngộ khỏi tan mất. Điều quan trọng nhất về đời một vị tái sinh là, trong quá trình huấn luyện, bản lai diện mục – thức dậy, và đấy là dấu hiệu chứng tỏ “thứ thiệt”. Chẳng hạn đức Dalai Lama thừa nhận ngài có thể hiểu dễ dàng từ lúc tuổi còn rất nhỏ, những khía cạnh thâm ảo của giáo lý Phật mà người ta cần phải nhiều năm mới hiểu được.
Nuôi dưỡng những vị tái sinh cần sự cẩn thận tối đa. Ngay cả trước khi sự huấn luyện bắt đầu, cha mẹ được chỉ dẫn phải đặc biệt chăm sóc những vị ấy. Sư huấn luyện những vị tái sanh còn gắt gao hơn huấn luyện tu sĩ thường, vì những triễn vọng mà người ta chờ đợi ở các vị ấy.
Đôi khi họ nhớ những đời trước, hoặc chứng tỏ những khả năng lạ lùng. Như Đức Dalai Lama đã nói:
– Chuyện thông thường là những trẻ tái sanh nhớ được những vật và người từ những đời trước. Một vài trẻ còn có thể thuộc những kinh chưa được ai dạy.
Một vài người chỉ cần học qua đã thuộc, như trường hợp thầy Jamyang Khientse tôi. Khi còn bé, thầy có một vị dạy kèm rất khó tín. Thầy tôi phải sống với ông trong am cốc trên núi. Một buổi sáng ông bận đi làm lễ cho một người mới chết ở làng lân cận, và trước khi ra đi ông dặn thầy tôi đến chiều phải thuộc một quyển kinh nhan đề là “Tụng những danh hiệu của Văn thù,” một bài kinh rất khó dài năm chục trang, mà thường phải mất nhiều tháng mới thuộc được.[1]
Như mọi chú bé khác, ông vừa đi khỏi là thầy tôi bắt đầu chơi. Những người xung quanh lo ngại và bảo thầy tôi nên khởi sự học kẻo sẽ bị đòn, vì họ biết ông thầy dạy kèm rất nghiêm khắc và nóng tính. Thầy tôi vẫn chơi đùa cho đến xế chiều, biết ông ta sắp về, mới chịu đọc qua bài kinh một lần. Khi vị thầy dạy kèm trở về hỏi bài, thì thầy tôi đã thuộc lòng không sót một chữ.
Thông thường, thì không bậc thầy nào lại bắt một đứa trẻ làm một việc như vậy. Nhưng trong thâm tâm, vị này biết thầy tôi là một hóa thân của ngài Văn thù, vị Phật của đại trí huệ, và gần như là ông muốn dụ cho ngài phải tự chứng minh. Chú bé – tức thầy Jamyang Khientse – khi nhận một công việc khó khăn như thế mà không phản đối, cũng đã mặc nhiên tự nhận mình là ai. Về sau thầy Khientse viết trong tự truyện của ngài rằng vị thầy của ngài rất thán phục mặc dù không nói ra.
Cái gì tiếp tục nơi một vị tái sinh? Có phải vị ấy là một người với tiền thân vị ấy? Vừa phải vừa không phải. Động cơ và sự phát nguyện giúp đỡ mọi hữu tình thì giống, nhưng không phải cũng một người ấy. Yếu tố tiếp nối đời này sang đời khác là một ân phước. Sự truyền thừa ân phước này hòa điệu và thích hợp với mỗi thời đại kế tiếp, và vị tái sinh xuất hiện một cách thích nghi nhất với nghiệp của người đồng thời đại, để có thể hoàn toàn giúp đỡ họ.
Có lẽ ví dụ cảm động nhất về sự phong phú, hiệu quả, và tinh vi của hệ thống này là Đức Dalai Lama. Ngài được tôn sùng bởi tất cả Phật tử như là nhập thể của Phật Quan Âm, vị Phật của lòng bi mẫn bao la.
Lớn lên ở Tây Tạng, làm vị Phật-Vương, đức Dalai Lama hấp thụ tất cả sự huấn luyện cổ truyền và những giáo lý chính thống của mọi hệ phái, và trở thành một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của Tây Tạng hiện nay. Nhưng thế giới thì chỉ biết đến ngài như là một người có đức bình dị thẳng thắn và cái nhìn rất thực tiễn. Ngài có một quan tâm nhạy bén đối với nhiều khoa học đương thời: Vật lý, Thần kinh học, Tâm lý học, và Chính trị. Quan điểm và thông điệp của ngài về trách nhiệm đại đồng không những được Phật tử nghe theo mà cả những người thuộc đủ mọi tôn giáo trên thế giới. Sự dấn thân của ngài trong phong trào bất bạo động trong cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tây Tạng trải qua bốn mươi năm đã đem lại cho ngài giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1989. Trong một thời đại bạo động, tấm gương của ngài đã khởi hứng cho nhiều dân tộc trên khắp địa cầu, trong khát vọng tự do của họ. Đức Dalai Lama đã trở thành một trong những người lên tiếng bảo vệ sinh môi trên thế giới, không mỏi mệt trong nỗ lực thức tỉnh con người trước hiểm họa của một nền triết lý ích kỉ duy vật. Ngài được những nhà trí thức và lãnh tụ khắp nơi ngưỡng mộ, tuy thế tôi đã biết hàng trăm người thường dân đủ loại và ở khắp các quốc gia, mà cuộc đời họ đã biến đổi nhờ niềm vui được thấy vẻ đẹp, tính hài hước và sự hiện diện thánh thiện của ngài. Đức Dalai Lama, tôi tin tưởng, chính là gương mặt của Đức Phật Từ Bi đang hướng về một nhân loại lâm nguy; ngài là hiện thân của Quán Âm không những cho Tây Tạng hay cho Phật tử, mà cho toàn thế giới đang cần hơn bao giờ hết, đức bi mẫn và tấm gương của ngài, hoàn toàn phụng sự cho hòa bình.
Người Tây phương sẽ ngạc nhiên khi biết được rằng ở Tây Tạng đã có bao nhiêu tái sinh, bao nhiêu vị đã từng là đạo sư, học giả, tác giả, bậc thánh, đã có những đóng góp nổi bật cả về giáo lý lẫn về xã hội. Những vị này đóng một vài trò cốt yếu trong lịch sử Tây Tạng. Tôi tin rằng tiến trình tái sinh này không giới hạn ở Tây Tạng, mà có thể xảy ra trong mọi nước vào mọi thời. Trong lịch sử đã có nhiều thiên tài về nghệ thuật, sức mạnh tâm linh, nhân bản, đã giúp loài người tiến hóa. Tôi nghĩ đến Gandhi, Einstein, AbLincoln, Mẹ Theresa, đến Shakespeare, đến thánh Francis, đến Beethoven, đến Michelangelo. Khi người Tây Tạng nghe đến những vị ấy, họ liền bảo ngay đấy là những Bồ tát. Và mỗi khi tôi nghe về họ, về tác phẩm, tri kiến của họ, tôi rất xúc động trước sự vĩ đại của tiến trình rộng lớn mà chư Phật và các bậc thầy đã tỏa ra để giải thoát hữu tình và cải thiện thế giới.
——————————————————————————–
(*) Tư tưởng và quan niệm, N. Y. 1954.
Hình: Chùa Vàng Shewdayon ở thành phố Yangon hany Ngưỡng Quang,là niềm kiêu hãnh của người dân Myanma .-NN sư tầm
(Kỳ sau: Chương 7)
Paid Links