1.Kịch thơ Hoàng Cầm và tôi,những ngày Hội An, thơ ấu(Du Tử Lê)2.Mùa xuân Miên Viễn(Nhã Nhạc)

25/06: Kịch thơ Hoàng Cầm và tôi, những ngày Hội An, thơ ấu
Category: Tùy Bút / Hồi ký
Posted by: Tbl Đọc: 2420 lần

Du Tử Lê,

Kịch thơ Hoàng Cầm và tôi, những ngày Hội An, thơ ấu.

le-hoi an

(Nguồn: DTL.- Hình: DTL ngồi trên bậc thềm của trường cũ,2006 )*

Cách đây mấy tuần, một buổi trưa, tôi tới Thư Viện Việt Nam ở thành phố Garden Grove, tham dự buổi ra mắt thi phẩm của một người bạn về từ tiểu bang Virginia. Nhà thơ Nguyễn Đức Liêm. Trong số bằng hữu đến chung vui với họ Nguyễn, tình cờ tôi gặp lại một người bạn từng làm khá nhiều thơ, những năm đầu di tản. Phùng Minh Tiến.

Điều tôi muốn nói, không phải vì qúa lâu tôi không gặp anh. Cũng không phải vì tôi từng chú ý tới thơ của anh trong những năm đầu tỵ nạn.

(Ở những dậm đường lưu đầy thứ nhất, khi lớp người Việt tỵ nạn đầu tiên còn choáng váng với biến cố 30 tháng 4; thân, tâm còn như những thanh củi mục dạt, trôi vô định, không ngày mai. Những thất lạc, mất mát nóng hổi như những vết thương còn đọng tươi hơi thép lạnh của những lát dao định mệnh hay, nhám, ám mùi bom, đạn oan khốc…Vậy mà, bạn tôi đã…

… có thể viết xuống những vần thơ lãng mạn cho một cuộc tình, nghe đâu, khá gập ghềnh nắng, gió chông chênh.)

Điều tôi muốn nói, cũng không phải vì lần đầu bạn tôi bảo, anh vẫn nhớ tôi, những ngày đóng kịch “Hận Phi Khanh” (1) ở bên hông sân trường Nam Tiểu học Hội An, giáp tết Nguyên Đán, 1954.

Le-hoi an-4-Hoang cam

Hoàng Cầm-bên phải và dtl

Phùng Minh Tiến không phải là người thứ nhất, nhắc tôi nhớ những ngày tôi cầm kiếm gỗ, thắt lưng lụa điều, trong vai Nguyễn Trãi, gân cổ ngâm nga, hay quỳ gối (ra chiều ăn năn, xúc động) dưới chân người cha là Nguyễn Phi Khanh, nơi Ải Nam Quan, để nghe lời cha dặn phải trở về…

Người không bao giờ quên nhắc tới hình ảnh đó của tôi, trong những gặp gỡ tình cờ ở tiệm phở Nguyễn Huệ, là Nguyễn Viết Đĩnh.

Cùng với Phạm Gia Khánh, Nguyễn Huy Hân, Vũ Văn Bằng, Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Viết Đĩnh…chúng tôi là những học trò…“Bắc kỳ rau muống”, “Bắc kỳ ăn cá rô…cây” theo tàu “há mồm”, sớm có mặt ở ngôi trường Nam Tiểu Học Hội An đó.

Ngôi trường chỉ cho tôi vài tháng theo học ngắn ngủi. Nhưng những gì ngôi trường, cũng như thành phố Hội An / Chùa Cầu ưu ái tặng cho ký ức thơ ấu tôi, lại là những kỷ niệm máu, thịt. Tựa như tôi đã được ăn ở với nó, trọn vẹn một tuổi thơ. Ắp đầy một niên thiếu chơi vơi đỉnh ngọn buồn / vui đời mình.

le-hoi an 3-chua cau

Mỗi lần Nguyễn Viết Đĩnh nhắc lại thời tôi được chọn để đóng vai Nguyễn Trãi, tôi đều trả lời bạn bằng cách nhìn sâu trong mắt Đĩnh. Nắm tay Đĩnh. Mỉm cười…thay cho lời cảm ơn.

Tôi không biết khi tôi đóng vở kịch kia, bạn tôi có phải là một trong mười mấy tên lính Tàu, những kẻ áp tải “cha tôi” là Nguyễn Phi Khanh về Tàu… Và, lâu lâu bọn lính áp tải ấy, lại xô đẩy “cha tôi” ngã chúi đầu xuống đất! Khi ông không chịu đi, vì còn bận…ngâm thơ. Ông đang bận cho tôi những lời khuyên nhủ, giảng giải, để tôi hiểu thế nào là nợ nước tình nhà!

Tôi chủ quan cho rằng, chắc tôi phải “diễn” một cách “ấn tượng” lắm thì, bạn tôi mới có thể mãi nhớ cái “tài” rất ư “nghiệp dư” ấy.

Không nói ra, nhưng tôi ngầm hiểu, có thể bạn tôi, có phần tiếc cho “tài” đóng kịch sớm…nở nhưng cũng sớm…tàn kia của tôi? Vì sau đó, khi đã rời khỏi Hội An, Nguyễn Viết Đĩnh không hề nghe thấy tên tôi ở bắt cứ một sân khấu, một “sàn diễn”…dù heo hút nào.

Nhưng mỗi lần nghe Nguyễn Viết Đĩnh nhắc chuyện xưa, trong tôi lại bùng lên những câu hỏi mà, ký ức mịt mờ chớ hề cho tôi một câu trả lời rõ ràng!

Đó là những câu hỏi đại để:

Người bạn nào của tôi được “vào vai” Phi Khanh để “đóng cặp” với tôi?

Phi Khanh có bị đeo gông nơi cổ, nơi tay hay, chỉ bị trói bằng một sợi thừng tượng trưng?

Chúng tôi có phải tập trước khi diễn thật, hay phần thơ của ai thì người đó mang về nhà học thuộc? Nếu phải tập trước thì, những buổi tập dó diễn ra ở đâu? Giờ nào? “Đạo diễn” của chúng tôi là ai?

Tôi chỉ nhớ một cách mơ hồ, hình như chúng tôi có tới hai… “đạo diễn” chính thức: Thầy Đắc, thầy Hoạt. Cùng rất nhiều “phụ tá”?

Tôi cũng nhớ một lần nào đó, thầy Tháo (hiệu trưởng) ra sân coi chúng tôi diễn thử, đã chỉ bảo tôi rằng, ngay lúc quỳ (một chân thôi,) tay trái (vì tôi thuận tay trái) phải đặt hờ lên đốc kiếm. Không được nắm chặt giống như sắp sửa rút…kiếm đâm quân thù… Nghĩa là dù đau lòng, thương xót “cha” cách mấy, tôi cũng phải giữ phong thái chững chạc, uy nghiêm của một…kẻ sĩ. Không được yếu xìu kiểu cảm xúc thường tình của một đứa con sắp sửa mất cha…

Theo sử sách, sau đó, Nguyễn Trãi đã quay về phò Lê Lợi khôi phục giang sơn.

Tôi không nhớ, Nguyễn Phi Khanh bị trói kiểu nào? Giựt cánh khủyu phía sau? Hay đeo gông phía trước? Nếu hai tay ông ở phía trước, thì trong suốt thời gian diễn, có bao giờ ông xoa đầu tôi?

Lại nữa, vở kịch thơ rất dài, tôi không nghĩ chúng tôi có thể diễn hết. Nhiều phần trích đoạn thôi. Nhưng đó là những đọan nào? Cả chương trình kéo dài bao lâu? Có ai “nhắc tuồng” cho chúng tôi sau “cánh gà” không?” Nhất là khi có những câu thơ mà Phi Khanh ngừng ngang, tôi phải “dzô” ngay, nếu không sẽ lạc quẻ. Sẽ “bể” show, theo cách nói bây giờ!

Như lúc Phi Khanh ngâm:

“…Cha sẽ chờ con trả được thù chung (2)

“Ngày mai đây tấm thân tàn sẽ mất

“Nhưng linh hồn bay lại với non sông

“Con về đi! Cha yên tâm chịu khổ!

“Con về đi! Đúc thép chống giang san

“Cha tin chắc đường gươm nơi đất tổ

“Sẽ có ngày sáng chói những vinh quang

“Con về đi…

Rồi bỏ lửng! Trong vai Nguyễn Trãi, tôi sẽ phải tiếp ngay:

“Thưa cha đau đớn lắm

“Nỗi chia lìa tê buốt bóng trăng xa…

“Như thân con có quản gì bụi lấm

“Xin theo hầu thân phụ đến Trung Hoa…”

Tôi tự hỏi, nếu tôi không nhớ, nếu tôi đứng (hay quỳ gối) mà mặt cứ nghệt ra, thì sao?

Giữa cái không khí u buồn, thê lương ấy, trong số mấy trăm khán giả nhi đồng của chúng tôi, có một tên nhóc nào đó, bỗng cười ré lên…thì còn gì là “uy danh” diễn viên chính!

Tôi muốn nói, mỗi lần gặp Đĩnh, trong tôi lại bùng lên hàng chục câu hỏi ngây ngô như thế!

Nhưng, trong buổi trưa cách đây ít tuần ở Thư Viện Việt Nam, Phùng Minh Tiến không cho tôi cơ hội nhìn sâu trong mắt anh. Nắm tay anh. (Và,) mỉm cười thay cho lời cảm ơn. (Mà,) tựa như anh đã xé rách tấm màn sương quá khứ mấy chục năm của thơ ấu tôi, khi lần đầu tiên anh hỏi tôi có nhớ, cách đây trên 50 năm, anh chính là người đóng vai Phi Khanh, cha của Nguyễn Trãi?

Câu hỏi bất ngờ của người bạn học lớp nhất, trường Nam Tiểu Học Hội An, đã như một phép mầu, tái hiện trong tôi, một phần thơ ấu tôi ở thành phố mà, mỗi ngôi nhà, mỗi viên gạch, mỗi thước đường, mỗi ngọn cây… dường đều có cho riêng nó, một tâm tình. Một lịch sử.

Chính nơi chốn, con người, khung cảnh, thời tiết ấy…đã là đỉnh ngọn buồn / vui một phần ấu thơ tôi, xa.

Tới giờ này, Hội An / Chùa Cầu, với tôi, vẫn còn như một ngôi đền linh liêng, những ngày tôi bé dại.

Tôi nghĩ bạn tôi, Phùng Minh Tiến không thể đoán biết hay, hình dung được những lượng sóng xúc động trong tôi, ở cấp độ nào.

Tôi cũng nghĩ, nhiều phần bạn tôi ngạc nhiên khi thấy tôi làm dấu mời anh ra khỏi phòng sinh họat. Tôi muốn tạm xa những người bạn tham dự buổi ra mắt sách của Nguyễn Đức Liêm; để được ít phút tư riêng với đứa con giòng dõi Hội An / Chùa Cầu.

Tôi muốn được đứng riêng với Phùng Minh Tiến, dù chỉ ít phút, để nghe rõ, thấy rõ hơn những ngày mưa Hội An mà bạn tôi vừa nhắc lại.

“…Mưa Hội An thường bắt đầu từ tháng 9 hoặc tháng10…Đôi khi kéo dài tới Tết!”

Tôi muốn được đứng riêng với bạn, dù chỉ ít phút, để nghe được rõ hơn, qua lời kể của Phùng Minh Tiến, những ngày lụt, nước sông Thu Bồn ì uồm, dâng cao, ngập con đường bờ sông, trước khi ào ào tuôn vào những chiếc sân bậc thang của những ngôi nhà ăn thông hai mặt đường: Phan Bội Châu và bến Bạch Đằng.

Tôi biết, khi đứng với nhau trong ít phút như vậy, người bạn thời lớp nhất tiểu học của tôi, đã không thể nghĩ được rằng, giữa buổi trưa quê người, khi nắng tháng Năm, mùa xuân ở California, còn như tơ nõn, thả những giải lụa vàng lên vai cảnh vật, xanh, tôi gặp lại ấu thơ mình. Tôi gặp lại Hội An / Chùa Cầu những ngày lũ. Lụt.

Những ngày mưa lớn, được nghỉ học, chị em tôi thường rút hết lên tầng phần trên căn nhà mặt tiền ngó vào đường Phan Bội Châu. Đó là là tiệm thuốc bắc của ba chị Dùng. Ông là chủ nhà. Anh tôi thuê một phần, ở tạm, lúc bị đổi về Hội An, từ Đà Nẵng.

Những ngày giáp Tết, những ngày mưa, những ngày lũ, lụt, chị Dùng hay rủ tôi và chị Tâm tôi, lên căn lầu nơi chị có một căn phòng riêng, bên cạnh kho chứa thuốc và, phòng của bố mẹ chị.

Tại đó, trên một chiếc phản gỗ đã lên nước đen lánh, chị Dùng dạy tôi chơi bào cào. Chị Dùng dạy tôi đếm nút…

Cũng ở căn phòng ấy, ít ngày, trước khi tôi phải theo người anh lớn, đổi ngược trở lại Đà Nẵng, chị Dùng xin phép mẹ tôi, cho tôi và chị Tâm tôi, được ngủ một đêm, với chị.

Cũng những ngày nước ngập gần hết các sân bậc thang, trước khi chia tay, chị Dùng hẹn tôi ra tuốt phía sau, chỗ gần cây khế, nơi nước đã rút đi ít nhiều. Chị dúi vào tay tôi một chiếc khăn nhỏ, rút chỉ bốn chung quanh, thêu thêm vài bông hoa xanh, đỏ.

Chị nói đại ý:

“Để mỗi khi dùng, P. sẽ nhớ chị…”

Những ngày lưu lạc quê người, một lần quá nhớ Hội An / Chùa Cầu; quá nhớ chị Dùng và, những ngày mưa bạt ngàn sông Thu Bồn, tôi đã viết lại chuyện ấy. Như một tưởng tiếc ấu thơ, xưa và, lòng biết ơn một nơi chốn, cũ.

Tôi chỉ không kể, cho đến ngày làm mất chiếc khăn thêu của chị Dùng, tôi chưa một lần dùng nó. Tôi cũng không nói với tôi, nó là một thứ “thần thọai”, một loại “cổ tích” của riêng tôi.

Cách đây hai ngày, trong một cuộc điện đám, Phùng Minh Tiến lập lại, anh có đọc, đã lâu, lâu lắm rồi, bài viết ấy. Tôi định hỏi anh, câu hỏi dành cho đứa con dòng chính của Hội An / Chùa Cầu rằng:

Nếu chị Dùng còn sống và, nếu tôi được gặp lại chị, liệu chị có nhớ chuyện ngày xưa? Chiếc khăn thêu? Cây khế sân sau? Những ngày mưa? Thu Bồn lũ, lụt?

Có thể bạn tôi sẽ trả lời, một cách ý nhị rằng:

“Bản chất chất của ký ức người già là lãng quên, tương đồng với phản bội…”

Nếu bạn tôi đã quả quyết như vậy, tất nhiên, tôi không cãi được. Nhưng tôi cũng sẽ quả quyết với anh rằng, riêng tôi, tôi vẫn nhớ! Nếu cần, tôi sẽ nói thêm:

Vì nó là một phần máu, thịt tôi những ngày ấu thơ, cũ.

Hội An / Chùa Cầu không chỉ cho tôi kỷ niệm được chọn đóng vai Nguyễn Trãi, trong vở kịch thơ “Hận Nam Quan” của thi sĩ Hoàng Cầm mà, Hội An / Chùa Cầu, với thầy Tháo, hiệu trưởng trường Nam Tiểu học Hội An còn chọn một tên “Bắc kỳ rau muống” là tôi, đại diện toàn trường, đến tòa tỉnh đọc diễn văn chúc mừng năm mới ông tỉnh trưởng và, các giới chức trong tỉnh. (3)

Dĩ nhiên, diễn văn do các thầy viết. Bổn phận của tôi chỉ là đọc sao cho trôi chảy. Lúc lên bổng. Lúc xuống trầm. Không vấp váp. …

(Tôi nhớ đã được phép đem bài diễn văn này về nhà, đọc tới đọc lui. Anh Quỳnh tôi phải chỉ tôi chỗ nào nghỉ ít, chỗ nào nghỉ nhiều. Ở đoạn nào thì tôi phải ngước mặt lên để nhìn thẳng vào các viên chức đại diện của tòa tỉnh…)

Với tôi, đó là những kỷ niệm một thời thơ ấu. Tôi sẽ mãi giữ chúng, cho riêng mình. (Như tôi đã giữ lại những điều định nói với bạn.)

Le-Hoi An 2

Thay vào đấy, tôi kể Phùng Minh Tiến nghe, cách đây nhiều năm, đáp lời mời của mấy người bạn trẻ ở Hội An, từ Đà Nẵng, cùng với T., tôi đã trở về Chùa Cầu. Tôi đã trở về cái thành phố mà, mỗi ngôi nhà, mỗi viên gạch, mỗi thước đường, mỗi ngọn cây… dường đều có cho riêng nó, một tâm tình. Một lịch sử.

Tôi kể với người bạn thời lớp nhất của tôi rằng, tôi đã đứng giữa sân trường mùa-hè-tuổi-thơ-tôi-vắng-lặng. Với mái tóc tôi đã trời-chiều-mây-trắng.

Người bạn trẻ tình nguyện hướng dẫn chúng tôi, nói người bảo vệ rằng, hơn 50 năm trước, ông này học ở đây. Anh chỉ tôi.

Tôi chờ đợi phản ứng khó chịu, xua đuổi của anh bảo vệ. (Như tôi đã từng gặp ở những nơi chốn tuổi thơ tôi, khác.)

Nhưng không. Anh gật đầu. Anh cười. Nụ cười chân chất, tuy có thoáng chút ngập ngừng.

Nụ cười chân chất ấy, làm tôi nhớ, hơn nửa thế kỷ trước, Hội An / Chùa Cầu cũng đã từng mở lòng đón tôi, (đón chúng tôi,) những cậu học trò Bắc kỳ di cư- – Những “Bắc kỳ rau muống”, “Bắc kỳ ăn cá rô…cây” như thế.

Khác chăng, ngày ấy, Hội An / Chùa Cầu đã nhận đón tôi, như nhận đón một đứa con thơ dại, thất lạc, mới tìm về. Không hề, dù chỉ một thoáng dè dặt, ngập ngừng. Nghi ngại.

Có dễ biết tôi bị xúc động, T. nói thay:

“Anh cho phép chúng tôi đi loanh quanh trong sân trường hỉ?”

Người bảo vệ lại gật đầu:

“Anh chị tự nhiên…”

Và thêm:

“Bao năm nay, trường vẫn vậy?”

Tôi không biết anh có ý định nói với tôi hay không? Nhưng tôi vẫn trả lời:

“Vâng. Bao năm nay, trường vẫn vậy!”

Người bảo vệ lui về phòng trực.

Tôi bồi hồi chỉ cho T. thấy lớp học tôi ngày xưa. Đó là căn đầu tiên của cạnh dài chữ “L” nằm ngang.

Bước tới. Nắng chói. Chúng tôi không thấy gì sau những cánh cửa gỗ khép kín. Tôi rủ T. và người bạn trẻ dẫn đường, ngồi xuống bậc thềm, xưa.

Phóng tầm mắt từ một khoảng cách sâu trong sân trường tới con lộ tráng nhựa thênh thang nắng, gió trước mặt, tôi nói với T., tiếc họ đã đốn mất quá nhiều cây. Trong khi bên kia đường mấy gốc cây non, mới trồng, chưa đủ sức cho con đường hôm nay, bóng mát.

Đứng với nhau như thế, nơi hàng lang tầng lầu thứ nhất của Thư Viện Việt Nam, những tưởng chúng tôi sẽ cùng nhau giở lại những trang sách ấu thơ một thời Hội An / Chùa Cầu, để cùng sống lại với một Phi Khanh cương nghị, lẫm liệt nhưng cũng không kém phần nát gan, đứt ruột, như:

“A! Nguyễn Trãi! Hãy dẹp tình thảm thiết

“Trông đằng sau: Xương máu ngập giang sơn

“Cha sinh con! Là hy vọng về sau

“Đến ngày nay, giữa đường cha đứt gánh

“Thì con ôi! Tung kiếm cho quên sầu!

“Con về đi! Cha vui lòng vĩnh việt

“Con về đi! Rửa nhục cho non sông

“Con phải nhớ: Con là dòng tuấn kiệt

“Trong người con cuồn cuộn máu anh hùng.”

Và, Nguyễn Trãi vẫn nặng tình phụ tử, vẫn yếu đuối, chí ít cũng cho tới lúc này của vở kịch:

“Nhưng bên trời, cha cùng anh tắm máu

“Con lòng nào yên sống giữa quê hương

“Ôi! Đại Việt vào tay loài thảo khấu

“Khói nghìn năm thoi thóp bên sa trường

“Khắp non sông vừa tàn cơn ác mộng

“Tình yên vui, trăm họ nén đau thương

“Ai đồng chí trong đám người ham sống

“Trên kinh thành lơ lửng một thanh gươm!”…

Và, còn nhiều câu nữa, trước khi vở kịch về lại với Phi Khanh.

Vẫn một Phi Khanh quyết liệt, gia tăng cường độ “mắng mỏ” thảm thiết đứa con nhu nhược:

“Không thể được! Định sang Tàu chết nhục?

“Làm con ma uất hận giữa quê người!

“Con hèn quá, con làm cha tủi cực

“Thôi! Mong gì báo đáp một ngày nai!

“Giống đại Việt không bao giờ hèn yếu,

“Tự nghìn xưa ngẩng mặt lên trời cao

“Ôi! Kiêu hãnh là những trang niên thiếu

“Tự nghìn xưa không nhụt chí anh hào!

“Gái cùng trai trên non sông gấm vóc

“Đã thêu bằng huyết lệ, bằng gươm đao

“Những trang sử đẹp như vàng với ngọc

“Bóng muốn đời không thẹn với trăng sao!

“Con là trai mà không bằng nhi nữ

“Cha sinh con hổ thẹn với trời xanh

“”Mong chết uổng chỉ là người úy tử

“Sống bẽ bàng thêm tủi mặt tài danh”.

Tới đây, theo diễn tiến, vở kịch ghi rõ:

Trãi (mơ màng nhìn về phía xa):

“Ôi bóng quê hương ngả nắng chiều

“Những mùa thu cũ gợi thương yêu

“Mái tranh xơ xác, thềm giăng lạnh

“Sân mốc, vườn hoang, gió tịch liêu

“Tre xanh san sát chuyện gươm đao

“Đứng rũ tà huy nhuộm máu đào

“Thép rỉ buồn tênh lời sắt đá,

“Gươm cùn tựa nguyệt giấc chiêm bao

“Chí khí phai dần trên kỷ niệm

“Như đường tơ nhạt nếp thời gian

“Bao giờ dứt lệ quên đau khổ

“Tung kiếm nghìn thu quét bạo tàn.”

(Đọan thơ trên là phần trách nhiệm của tôi. Tôi nhớ, một trong những “đạo diễn” (thầy Họat hay Thầy Đắc) đã dạy tôi rằng: Tuy là những lời tự thán của Nguyễn Trãi, nhưng khi đó, tôi phải đứng cho thẳng, mắt không hướng về Phi Khanh mà, phải hơi nghiêng về hướng ngược lại. Nhớ nắm chắc đốc kiếm…gỗ…Để tới khi ngâm câu “tung kiếm nghìn thu quét bạo tàn” thì tôi phải rút kiếm ra, chỉ lên không trung. Như một thề nguyền giữa trời đất với một vẻ mặt “tự giác” đầy… hào khí. Nói theo chữ nghĩa hôm nay thì, tôi phải… “diễn” sao cho thật “ấn tượng”. Vì ngay sau đó, là giai đọan Phi Khanh tỏ dấu hài lòng về người con nhu nhược vừa tỉnh ngộ…)

“Con yêu quý! Chớ xuôi lòng mềm yếu

“Gác tình riêng, vỗ cánh trở về Nam!

“Con về đi! Tận trung là tận hiếu

“Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang

“Nếu trời muốn cho nước ta tiêu diệt

“Thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh

“Không bao giờ! Không bao giờ con chết

“Về ngay đi rồi toại chí công thành!

“Nghĩ đến cha một phương trời ảm đạm

“Thì nghiến răng vung kiếm quét quân thù

“Trãi con ơi! Tương lai đầy ánh sáng

“Cha đứng đây trông suốt được nghìn thu”.

Tới lúc này, theo kịch bản Nguyễn Trãi phải vừa quỳ lạy cha vừa ngâm:

“Cha nói đến tương lai đầy ánh sáng

“Khiến lòng con bừng tỉnh một cơn mê

“Qùy lạy cha, cha lên đường ảm đạm

“Rời Nam Quan, theo gió, con bay về”.

Vở kịch còn tiếp nhiều đoạn nữa, rất cảm động… Nhưng tôi nhớ, mấy thầy “đạo diễn” của chúng tôi đã chuẩn bị cho “hạ màn”, bằng cách cho phép các bạn tôi, những bạn đóng vai lính Tàu (không biết có Nguyễn Viết Đĩnh?) dí kiếm, lôi kéo, xô đẩy Phi Khanh đến gần hơn cửa ải… Trong khi Nguyễn Trãi vừa ngâm thơ vừa phải dợm bước theo…Nguyễn Trãi bị lính Tàu hung dữ cản lại.

Tuy bị xô đẩy phải đi tới, Phi Khanh vẫn trì, chống, lẫm liệt ngoảnh mặt nhìn con tha thiết, hãnh diện:

“Ôi! Sung sướng, trời sao chưa nỡ tắt

“Về ngay đi! Ghi nhớ hận Nam Quan

“Bến Kim Lăng, cho đến ngày nhắm mắt

“Cha nguyện cầu con lấy lại giang san”

Nguyễn Trãi (tiếp liền):

“Hận Nam Quan, biết bao giờ phai nhạt,

“Biết bao giờ cạn lệ khóc cha già

“Lúc vĩnh biệt thật trăm nghìn chua xót!”

Phi Khanh:

“Kìa con trông: Nắng hé chân trời xa”

Nguyễn Trãi:

“Chân trời xa!”

Phi Khanh:

“Về ngay đi Nguyễn Trãi

“Nâng gươm thề, đem quốc sử mà soi.”

Nguyễn Trãi:

“Đã đến giờ con lìa xa quan ải

“Kể từ nay Nam Bắc cách đôi nơi.”

Tới hai câu thơ này, như trí nhớ của tôi, thì “màn hạ”. Gọi là màn hạ cho dễ hiểu, chứ chúng tôi diễn kịch ngoài trời, đâu có màn che, trướng rủ gì!…

Dẫu vậy, Phùng Minh Tiến nhấn mạnh, tuy học trò diễn kịch cho nhau xem, nhưng các thầy cũng cho chúng tôi được mặc quần áo, đeo râu, đánh phấn, bôi mặt…đi ủng kiểu tráng sĩ ngày xưa, tùy từng vai trò…

Bạn tôi, những người đóng vai quân Tàu cũng được đội nón, mang đao hệt như quân…Tàu ngày xưa vậy.

Để khán giả (bạn học các lớp của trường) hiểu màn hạ, tới lúc này tôi phải phủ phục xuống sân, giống như lạy sống “cha tôi” Phùng Minh Tiến…

Chẳng biết có phải vì căng thẳng, quá mệt hay, còn muốn nhận thêm những tràng pháo tay, la hét ồn ào của các bạn mà, tôi đã nằm luôn như thế, cho tới khi một ông thầy bước tới, lay tôi dậy!

Sự chờ đợi “tái hiện” màn trình diễn “độc đáo” của hai diễn viên nhi đồng nghiệp dư” nơi tôi, không xẩy ra. Dường như tâm trí bạn tôi đang bay bổng hay, siêu tán tới một chân trời nào khác.

Tôi bất lực nhìn về con đường Euclid, vắt ngang, với những chiếc xe và, đám người Việt di chuyển mờ nhạt, lẫn với những người Mễ lố nhố… Phùng Minh Tiến lại nói về những người bạn học thời tiểu học.

Anh hỏi tôi có gặp lại Nguyễn Huy Hân, Nguyễn Viết Đĩnh, Phạm Gia Khánh, Nguyễn Văn Bằng, Thái Tú Hạp, Bùi Văn Bảo…?

Tôi nói, nhiều năm trước, thời Nguyễn Huy Hân có một nhà hàng trong khu thương xá Eden ở Falls Church, tôi vẫn gặp Hân, mỗi lần đến Hoa Thịnh Đốn. Tôi nói, hồi đó, người bạn đời của Hân là một ca sĩ. Nhưng dường như họ đã chia tay(?) Bảo và Bằng thì chưa lần nào. Từ ngày sức khỏe “có vấn đề”, tôi ít lui tới phở Nguyễn Huệ, nên cũng không biết văn phòng khai thuế của Nguyễn Viết Đĩnh còn trong khu đó? Phạm Gia Khánh cũng vậy. Khánh về hưu, nhường phòng mạch cho người cháu là một bác sĩ trẻ; tôi không còn cơ hội.

Riêng Thái Tú Hạp, chủ nhiệm tuần báo Saigòn Times, rất thành công, ở Los Angeles, đã lâu, tôi cũng chưa được gặp lại.

Tôi hỏi phần Tiến? Bạn tôi nói, vẫn giữ được liên lạc ít nhất với hai bạn thuở nhỏ là Phạm Gia Khánh và Thái Tú Hạp. Anh bảo:

“Già rồi mà còn gặp nhau, biết được tin tức của nhau là một hạnh phúc to lớn…”

Câu nói vô tình của bạn tôi, như một mảnh gương, cho tôi thấy mình, cũng đang có một hạnh phúc lớn..

Cái hạnh phúc được đứng với bạn thời tiểu học; giữa buổi trưa quê người. Lúc nắng tháng Năm, mùa xuân ở California, còn như tơ nõn, thả những giải lụa vàng lên vai cảnh vật, xanh. Tôi gặp lại ấu thơ mình. Tôi gặp lại Hội An / Chùa Cầu những ngày lũ. Lụt. Những ngày nước sông Thu Bồn dâng cao, xóa trắng đôi bờ.

Nó cũng xóa trắng hàng chục câu hỏi mà, tôi đã định sẽ tuần tự hỏi bạn!

Du Tử Lê

(June 18 – 2010)

————————————————————————————————-

(1): Nhan đề đúng của vở kịch thơ này là “Hận Nam Quan” của thi sĩ Hoàng Cầm.

(2): Phần thơ trích dẫn trong bài này, theo tài liệu trên trang mạng dactrung.com.

(3): Tôi không hỏi, nhưng vô tình, bạn tôi, Phùng Minh Tiến kể rằng, thời đó, năm 1954, Tòa tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam đặt tại Hội An chứ không phải Đà Nẵng, như sau này.

* Phần đầu của tùy bút này đã được đăng trên nhật báo Người Việt , số đề ngày : Thursday,June 24-2010 * (NN chú thích)
– See more at: http://www.saungon.net/tbl/item_296.html#sthash.LLZTqGBH.dpuf

……………………………………………………………………………

19/02: MÙA XUÂN MIÊN VIỄN-
Category: Tùy Bút / Hồi ký
Posted by: Tbl Đọc: 4131 lần

-o0o-

MÙA XUÂN MIÊN VIỄN
Nhã Nhạc

Nhat Ban -Phat

Tượng Phật Nhật Bản mùa Hoa Anh Đào 2006

-o0o-

Vào dịp Tết Tân Mão, 2011, chúng tôi đã gửi lời chúc Xuân đến quí bạn đọc, bằng hữu …một câu ngắn gọn như sau , chúc :”Một mùa xuân Di Lặc” .Ngày mồng Một Tết hàng năm cũng là ngày vía đức Di Lặc .
“Mùa xuân Di Lặc” bắt nguồn từ ý nghĩa việc tu tập theo hạnh “Xả” của…

… Đức Di Lặc . Ngày Mồng một Tết chúc nhau một “Mùa Xuân Di Lặc” ý nhắc nhở chúng ta hãy theo chân ngài Di Lặc, ngay từ hôm nay, hãy “buông bỏ” hết mọi ưu tư, phiền não …để có thể “đến được bờ bên kia”, tức “bờ giác ngộ”

Trong bài viết, chúng tôi cũng đã thú thực là : trước khi đọc sách Phật, mỗi khi thắp nén nhang trước tương Đức Di-Lặc, chúng tôi đã thầm khấn một câu đơn giản :”Xin ban cho con nụ cười tươi, rạng rỡ như của Đức Phật Di Lặc !”
Sau khi đọc kỹ về Đức Di Lăc, chúng tôi nhận ra mình sai nhầm hai điểm : -một là về danh xưng . Ngài Di-Lặc là một vị Bồ Tát và là một vị Phật trong tương lai, nối tiếp Đức Phật Thích Ca . Vì không hiểu rõ, chúng ta quen gọi ngài là Đức Phật Di-Lặc . Mỗi khi tụng kinh lễ bái, Phật tử chúng ta chí tâm đảnh lễ ngài Di-Lặc bằng câu :”Nam mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Di-Lặc tôn Phật”, vì Ngài là một vị Bồ Tát và là Giáo chủ Hội Long Hoa .
– Điều sai nhầm thứ hai của chúng tôi là : lời cầu xin “một nụ cười …” Ngài Di-Lặc không thể ban cho chúng tôi nụ cười tươi tắn, rạng rỡ như của Ngài được ! Chúng tôi phải tự tạo cho mình nụ cười đó – như Ngài Di-Lặc đã chỉ dạy – bằng cách “buông xả” hết phiền não .

Hạnh xả là hạnh thứ tư trong tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỉ, xả) . Một cách đơn giản, xả là buông bỏ hết mọi phiền não trong đời sống . Nhưng, nói thì dễ mà thực hành thì rất khó .Ngày nào mà chúng ta còn để sáu căn (lục căn, lục trần : mắt,tai, mũi, lưỡi, thân và ý) chi phối, điều khiển, thì ngày đó, chúng ta còn bị các thứ phiền não đeo đuổi .
Thực ra, Đức Di-Lặc cũng bị sáu căn này chi phối như chúng ta . Hãy nhìn tượng ngài Di-Lặc : chung quanh ngài là sáu đứa trẻ, tượng trưng lục căn (sáu tên giặc) luôn phá rối Ngài (có tượng chỉ để năm đứa trẻ tượng trưng, vì ý căn vô hình . (Những trẻ này giúp nhận ra tượng Di-Lặc khác với tượng ông Địa !) . Sở dĩ Ngài vẫn tươi cười, an nhiên, tự tại là vì Ngài không để cho sáu căn này lôi cuốn, trói buộc vào vòng phiền não, và vì Ngài hiểu, như Đức Phật đã dạy : mọi vật trong đời đều là hư giả …
Buông bỏ phiền não thật không phải là dễ ! Đức Di-Lặc khuyên chúng ta, trước hết, hãy dứt bỏ “tham, sân, si” (tam độc), chúng chính là nguồn gốc của phiền não . Việc tu tập theo hạnh xả không thể một sớm một chiều mà đạt ngay được .Người Phật tử chúc nhau “Mùa Xuân Di-Lăc ” vào ngày vía của Ngai, cũng là ngày mồng Một Tết, chính là để nhắc nhở nhau hãy tu tập theo chân Ngài ngay từ hôm nay . Chúng ta sẽ cố dứt bỏ phiền não mỗi ngày một chút, từng bước, từng bước một .
(Xin xem thêm bài “Phiền não” trong mục :”Phật học”)

Mùa Xuân Nhâm Thìn sắp tới đây, chúng ta lại chúc nhau một “Mùa Xuân Di-Lặc”, nhắc nhở nhau đi tiếp con đường “buông xả” mà ngài Di-Lặc đã đi, đồng thời cũng để kiểm chứng xem mình đã buông xả được nhiều hơn chưa trong năm vừa qua ? Chúng ta đã bớt được nỗi lo âu “mất, còn” vì thời cuộc , vì vật giá leo thang …? Chúng ta đã bình tĩnh, không giận dữ nhiều hơn trước những lời dị nghị, khen chê của người đời ? Chúng ta đã bớt được tính ham thích (đổi một cái xe mới ?-Cần một ngôi nhà khác tiện nghi hơn ? ..) vân vân và vân vân ..

Từng bước … từng bước một, hy vọng, mỗi năm, chúng ta buông xả được nhiều hơn, tốt hơn . Ngày đến được “bờ bên kia”(đáo bỉ ngan, tức bờ giác ngộ) tuy còn xa, rất xa, nhưng chúng ta không nản chí, vì Đức Phật đã từng nói :”Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành .”
(Xin nhắc lại : Phật là bậc đã giác ngộ – Xem thêm trong mục Phật học) .

Khi biết mình vẫn cố gắng buông xả mỗi ngày trong đời sống, chúng tôi có suy nghĩ xa thêm . Chúng tôi tự nhủ : Sao mình không “kiêm nhiệm” một việc gì khác nữa bên cạnh việc tu tập hạnh xả này, mà kết quả là từng bước, từng bước một …đang hình thành ?

Nhớ lại, thời trung học, chúng tôi đã đọc được ở đâu đó câu nói :”Hạnh phúc lớn nhất trong đời là làm cho người khác được hạnh phúc !” ; rồi thêm lời dạy của Mẹ :”Ở hiền gặp lành”, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”,”Thương người như thể thương thân” …Chúng tôi cũng đã cố thực hành những lời khuyên này .

Sau này, lớn khôn hơn, tìm đọc sách Phật, chúng tôi nhận thấy, những việc mình làm để cho “người khác được hạnh phúc”, tuy là tốt, nhưng chúng không thành bài bản, không là câu châm ngôn hàng đầu cho cuộc sống như pháp tu theo “Bố thí Ba-La-Mật” của Đức Phật đã dạy .

Pháp môn tu theo “Bố thí Ba-La-Mật” là một phương pháp mầu nhiệm nhất để thực hành lòng từ bi (cùng nghĩa với “làm cho người khác hạnh phúc” …) . Nếu ta thực hành được pháp môn này, tức là ta đã độ cho mình và độ cho người khác ra khỏi bể Sanh Tử luân hồi, đến “bờ giác ngộ” !

Thế nào là “bố thí” và, “ba-la-mật” ? *
1-Bố là cùng khắp ; thí là cho, trao tặng . Bố thí là cho cùng khắp, cho tất cả mọi người, mọi nơi .
2-Ba-la-mật(tiếng Phạn : Paramita), người Trung Hoa dịch nghĩa là:”Đáo bỉ ngạn”, tức là “đến bờ bên kia” .
Bố thí ba-la-mật là một môn tu hành bằng phương pháp bố thí, có công năng như một chiếc thuyền, đưa mình và người từ bờ mê lầm của chúng sinh sang bờ giác ngộ của chư Phật .
(* Theo định nghĩa của HT . Thích Thiện Hoa)

Như thế, bố thí ba-la-mật có một nghĩa rất rộng lớn, gồm ba loại chính :
1-Tài thí : cho đi tiền bạc, của cải, vật thiết thân quí giá,, kể cả mạng sống của mình (để cứu vớt kẻ khác ra khỏi hiểm nguy …)
2- Pháp thí : khuyên bảo, chỉ dẫn người khác những điều hay, lẽ phải, những chân lý, những lời dạy của Đức Phật, mà bản thân mình đã phải noi theo để làm gương cho người khác .
3- Vô-úy thí : vô-úy là không sợ . Vô-úy thí là làm cho người khác không sơ hay hết sợ . Trong bể khổ của con người, nỗi sợ hãi , có thể, đã chiếm tới một nửa : mỗi giai đoạn của đời người có những nỗi sợ hãi khác nhau : từ khi còn đi học : sợ học bài, sợ điểm xấu, sợ thày, sợ bạn v..v.. Khi ra đời làm việc, còn nhiều thứ sợ hơn : sợ đói, sợ giặc, sợ công danh không bằng người , sợ tiền bạc không đủ tiêu ..v..v.. Về già : sợ phải xa con cái, sợ đau yếu, bệnh tật và, cả sợ chết ! …

Đức Phật đã nhìn ra những loại sợ này (nguồn gốc của “Đời là bể khổ”), Ngài đã khuyên chúng ta đừng sợ , từ đó, giúp người khác hết sợ . Làm được như thế là chúng ta đã làm giảm đi được đến một nửa khổ đau trong kiếp sống . Muốn cho mình hết sợ và giúp người bớt sợ, chúng ta phải tu tập trước, phải thấu hiểu giáo lý đạo Phật : chúng ta không sợ vì mọi sự vật ở đời (công danh, tiền bạc, và cả sinh mạng của ta) chỉ là giả tạm, vô thường :

Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần, nắng rám mùi dâu .
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê .
……………………………….
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh .
…………………………………..
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì !

(Trích Cung Oán Ngâm Khúc)

Cũng trong những cuốn sách năm xưa đã đọc, chúng tôi nhớ câu :”Cách cho quí hơn của cho !” Đức Phật cũng dạy một điều tương tự nhưng ý nghĩa rộng lớn, chi tiết hơn để Phật tử thấy rõ và thi hành đúng với “bố thí ba-la-mật” . Chúng ta bố thí cùng khắp, không phân biệt thù, bạn, sắc tộc …nhưng với tấm lòng trong sạch, ân cần, từ ái ; không ẩn ý (như bố thí chỉ vì được nêu tên tuổi …), bố thí mà không tự cao, tự đại ; không phân biệt kẻ cho, người nhận …Đó mới chính là bố thí rốt ráo, ba-la-mật . Một khi đã làm cho “người khác được hạnh phúc” như thế, chúng ta mới thực sự có hạnh phúc . Thứ hạnh phúc này là một phần thưởng vô cùng lớn, và vô cùng quan trọng vì, nó sẽ là chiếc thuyền độ cho ta và người qua được “bờ bên kia” ; đến được bến giác ngộ !

Cũng như phép tu theo hạnh xả của Đức Di-Lặc, với pháp môn bố thí ba-la-mật, chúng ta không thể một sớm một chiều đạt ngay được . Chỉ “từng bước và, từng bước”, mỗi ngày chúng ta biết buông xả, mỗi ngày chúng ta biết cho đi, tặng người, tặng đời …chúng tôi thiết nghĩ, làm được như thế, chúng ta có thể sẽ đạt được một “Mùa xuân miên viễn” .

Xin chúc quí bạn đọc, bằng hữu, các em , gia đình : một “MÙA XUÂN MIÊN VIỄN”

Cali, Xuân Nhâm Thìn 2012
Nhã Nhạc

……………………………………………………………………
– See more at: http://www.saungon.net/tbl/?itemid=1254&catid=2#more

……………………………………………..

Share

Leave a Reply

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Paid Links