12/08: 47. Tam Quán – 48. Trí Huệ
Category: Phật Học – Phật học ôn tập-
Posted by: Tbl Đọc: 4849 lần
BƯỚC VÀO CỬA PHẬT- BOOK 1
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
(Hình ::Hồ trên núi Nga Mi -Trung Quốc)
BÀI 47- TAM QUÁN
Xưa kia, nghe kể chuyện cụ Trạng Trình, ngoài các câu sấm liên quan đến thời thế, có một lời tiên đoán về việc người ta làm đổ cái bia ở mộ của cụ: “Cha con thằng Khả, làm đổ bia tao, làng nước xôn xao, bắt đền tam quán”. Quả nhiên, bao nhiêu năm sau, hai bố con một người tên là Khả đi đào chuột hay rắn gì đó, làm đổ bia của cụ. Chức dịch trong làng phạt ba quan tiền, nhưng vét hết tiền trong nhà, họ chỉ có đúng một quan tám mà thôi! Cụ Trạng đoán như thần: quan tám nói lái là tam quán ! Mới đây, khi đọc mục “chùa chiền” trong sách “Nếp cũ” của Toan Ánh, tôi thấy tác giả căn cứ vào bài “Vài nhận xét về các tượng thờ và cách bài trí trong các chùa Việt Nam” của Đức Hòa đăng trong Văn hóa nguyệt san số 58, tháng 2-61, Sài Gòn, để nhận rằng chữ nhà tam quan của nhà chùa gốc ở tam quan, ông nói…
… đó là không quan, giả quan và trung quan .
.
Tôi không biết chữ Hán nên không dám bàn, xin được “dựa cột”. Chỉ xin kể chuyện dính líu đến tam quan và tam quán.
Từ điển Phật học Hán Việt ghi: Tam quan là ba cửa, chỉ ba cửa ải huyền diệu, đó là nói về pháp môn. Tự điển ghi tiếp chuyện Lăng Nghiêm tam quan, dùng chữ Lăng Nghiêm vì có dính líu đến một người chú thích kinh đó. Người ấy bị hỏi ba câu mà không trả lời nổi, vậy là không qua nổi “ba cửa ải”. Lại có chuyện Hoàng Long tam quan, dùng chữ Hoàng Long vì người đưa ra ba câu hỏi hóc búa không ai trả lời được là thiền sư Hoàng Long (tức là Phổ Giác thiền sư ở trên núi Hoàng Long bên Tàu, đời Tống), tam quan nghĩa là “ba cửa ải” cũng nghĩa như chuyện trên. Tôi trộm nghĩ rằng trong chữ cổng tam quan hay nhà tam quan, quan có nghĩa là cửa.
Bây giờ nói về tam quán. Vẫn theo từ điển nói trên, ta thấy: tam quán là ba phép quán. Trong các thuyết của các nhà nói về Tam quán thì thuyết Tam quán của tông Thiên Thai là phổ thông nhất.
Ngoài Thiên Thai tam quán, còn có Hoa Nghiêm tam quán, Nam Sơn tam quán và Từ Ân tam quán.
Thiên Thai là tên núi ở tỉnh Triết giang bên Tàu. Ngài Trí Khải (538-597) đời nhàTùy (581-618) tới núi đó lập ra một tông, tông này tên là tông Thiên Thai, người ta gọi ngài là Thiên Thai đại sư, tên khác là Trí Giả đại sư. Tông này lấy kinh Pháp Hoa làm căn bản, luận Trí Độ của ngài Long Thọ (tổ thứ 14 của Phật giáo) làm kim chỉ nam và thuyết minh diệu lý “nhất tâm tam quán”. Trước tên là tông Pháp Hoa, sau tên là tông Thiên Thai. (Tông này truyền sang Nhật bản, gọi là tông Thiên Đài). Thật ra, ngài Huệ Văn mới là sơ tổ tông Pháp Hoa, ngài Huệ Tư là nhị tổ. Ngài Trí Khải là tam tổ, được tôn là giáo tổ, ngài viết nhiều bộ sách rất có giá trị, nhờ đó mà tông Thiên Thai phát triển mạnh. Có nhiều sách xếp ngài Trí Khải là tổ thứ tư vì tôn ngài Long Thọ làm sơ tổ mặc dù ngài ở Ấn Độ, thế kỷ II và không lập ra tông Thiên Thai.
Để có một ý niệm về “nhất tâm tam quán” tức là “Thiên Thai tam quán”, chúng ta nên biết thế nào là tục đế và chân đế (chân đế còn được gọi là thật đế hay đệ nhất nghĩa đế) tức là Chân lý tương đối và Chân lý tuyệt đối. Tục đế là chân lý dành cho người phàm, còn sống trên cõi đời này, xử sự trên cõi đời này, còn chân đế thì dùng cho cõi thánh, không còn bị ràng buộc vào thế gian này nữa. Trong Tâm kinh mà chúng ta vẫn tụng, ta thấy “vô trí diệc vô đắc”, vài dòng sau lại thấy “đắc a-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề”. Trên nói không đắc, ngay dưới lại nói có đắc, mâu thuẫn quá. Thật ra, đối với người phàm thì gọi là đắc, đối với hàng Phật thì gọi là không đắc vì có gì đâu mà đắc!
Nhìn sự vật (vạn pháp) theo con mắt phàm, theo tương đối, theo tục đế, thì rõ ràng cái gì cũng hiện hữu, cũng chiếm một chỗ trong không-gian, ngay cả ý nghĩ cũng hiện hữu. Ta nói rằng vạn pháp là CÓ.
Nhưng với sự “nhìn” theo chân đế, theo tuyệt đối thì trong vũ trụ này, chẳng có cái gì đứng vững một mình và tồn tại mãi mãi. Sự sự vật vật đều nương tựa vào nhau mà tồn tại, chẳng có tự-thể, mọi thứ đều do nhân duyên mà thành. Chúng có đấy, nhưng nhờ cái khác mà có, có một cách giả dối, có mà GIẢ, có mà như không, cho nên bảo là KHÔNG. Không nghĩa là thiếu vắng tự-thể, chứ chẳng phải là không có gì..
Với cái nhìn tương đối, vạn pháp là CÓ. Với cái nhìn tuyệt đối, vạn pháp là KHÔNG. Có, không chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Chấp nhận cả hai cái đó, cũng như chấp nhận hai mặt sấp ngửa của một đồng xu, như thế gọi là TRUNG ĐẠO.
Tam quán của tông Thiên Thai bắt nguồn từ đó:
1/ KHÔNG QUÁN: Theo chân đế, các pháp vốn là không, nhưng vì chúng sinh mê lầm nên chấp là có thật. Nhờ quán KHÔNG mà phá mê lầm ngõ hầu thoát cảnh sinh tử luân hồi.
2/ GIẢ QUÁN: Nhìn sự vật trên thế gian, thấy là có, phải dùng phép quán GIẢ để nhận thấy rằng đó là GIẢ cả.
3/ TRUNG QUÁN: Vuợt lên cả hai thứ vừa nói trên đây, phải nhờ phép quán TRUNG để thấy cả hai khía cạnh “có không” cùng một lúc, hai cái không rời nhau, mục đích thoát ra ngoài các mâu thuẫn.
Dùng “một tâm” mà đồng thời thực hành cả tam quán nên gọi là “nhất tâm tam quán”.
Từ cái cổng tam quan, mà nói lan man tới đây là quá dài, xin tạm ngưng .
BÀI 48. TRÍ HUỆ
1. Theo Phật học từ điển của Đoàn-Trung-Còn thì trí huệ ( hay trí tuệ) là trí thức của nhà thành Đạo, của bực học Đạo chân-chánh. Trái với ngu si, vô minh, phiền não. Cũng kêu tắt là trí hoặc huệ.
Trí là chiếu thấy, huệ là hiểu rõ. Trí huệ là sự thông-minh, sáng-suốt của Phật, Bồ-tát, chư Thánh và các nhà tu hành chơn-chánh, trong sạch.
Trí huệ và Phước đức là nhị trang nghiêm, hai món làm cho xuê lịch cái thân của Phật, của Bồ-tát.
2. Cái trí-huệ vừa định nghĩa ở trên cho ta thấy đó là trí thức của người đã thành Đạo, của Phật, của Bồ-tát, của chư Thánh … Để khỏi lầm lẫn với trí huệ mà ta vẫn nói hàng ngày, Phật học dùng từ ngữ “trí huệ bát-nhã”. Thật ra, chữ phạn prajnā phiên âm thành bát-nhã, đã có nghĩa là trí-huệ rồi. Sở dĩ nói “trí-huệ bát-nhã” là cốt để nhấn mạnh đến sự sáng-suốt của hàng Phật, Bồ-tát.
Trí huệ trong thế gian thường ngày là phàm trí. Trí huệ của người tu ngoại đạo, chưa thấy được chân-tướng của vạn pháp, gọi là tà trí. Trí huệ của bậc tu chứng bậc thấp, chưa thấy hết được chân-tướng của vạn pháp, gọi là tiểu trí.
Cả ba tĩnh-từ phàm, tà, tiểu đặt trên danh từ “trí” không có nghĩa xấu gì hết, đó là ứng-dụng vào từng trường hợp, để phân biệt với cái hiểu biết rốt ráo, cùng cực của Phật, Bồ-tát mà thôi.
3. Trong kinh sách lại thêm từ-ngữ “bát-nhã ba-la-mật” tức “trí-huệ ba-la-mật”. Lục Tổ Huệ Năng đã giảng về điều này trong cả một phẩm của kinh Pháp Bảo Đàn:
Ma-ha bát-nhã ba-la-mật-đa là tiếng Phạn Mahā Prajnā Paramita phiên âm ra, có nghĩa là Đại trí-huệ đáo bỉ ngạn. Ma-ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có ranh bờ, không vuông tròn lớn nhỏ, không xanh vàng đỏ trắng, không trên dưới dài vắn, không giận không mừng, không phải không quấy, không lành không dữ, không đầu không đuôi. Các cõi Phật đều không, cái diệu tánh của người thế gian vốn là không … Chớ nghe nói không mà liền chấp không. Nếu để tâm trống không mà ngồi yên lặng là chấp cái “vô ký không”. Thế giới tuy là trống không mà lại bao hàm muôn vật. Cái tánh không của người thế gian cũng thế, bao hàm muôn pháp. Thế gọi là lớn.
Nếu thấy hết thảy mọi điều dữ điều lành của người mà chẳng chấp chẳng bỏ, không nhiễm vướng, không dính-líu, lòng như không, ấy gọi là lớn …
Cái tâm lượng thiệt là lớn, châu biến toàn thể pháp giới, dùng nó liền hiểu rõ ràng tới chỗ cùng tận. Cái tâm lượng khi ứng dụng ra thì biết hết thảy sự vật. Hết thảy qui về một, một gồm hết thảy. Tới lui thong thả, tâm thể suốt thông không ngưng trệ tức là Bát-nhã vậy … Bát-nhã do tánh mình sinh ra, chẳng phải do nơi ngoài vào, ấy gọi là chân-tánh tự dụng…
Bát-nhã dịch là trí huệ. Bất cứ lúc nào, nơi nào cũng chẳng ngu muội, thường tu hạnh Trí huệ, tức là hạnh Bát-nhã. Phải biết tâm CHÂN KHÔNG. Bát-nhã không hình tướng, có rõ như thế mới hiểu bát-nhã.
Ba-la-mật-đa, dịch là đáo bỉ ngạn (qua bờ bên kia) nghĩa là khỏi sự sanh diệt, khỏi sanh tử luân hồi. Tâm dính cảnh thì sự sanh diệt dấy lên, như nước nổi sóng, đó là bờ bên này. Tâm lìa cảnh, thì không có sự sanh diệt, như nước thông lưu, đó là bờ bên kia.
Nếu niệm niệm tâm thường hành bát-nhã thì mới gọi là chân-tánh. Biết rõ pháp ấy thì hiểu pháp bát-nhã. Tu hạnh ấy là tu hạnh bát-nhã. Một niệm tu hạnh bát-nhã thì mình là Phật.
4. Lục Tổ Huệ Năng nói về ma-ha, về bát-nhã, về ba-la-mật-đa. Không những nói nội-dung mà nói cả tu hạnh bát-nhã. Đáng nhớ nhất là: “Không” bao trùm hết thảy; một là tất cả và tất cả qui về một; tâm lìa cảnh là đáo bỉ ngạn; niệm niệm tu hạnh bát- nhã thì thành Phật.
Tông chỉ của Thiền Tông là Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Thiền Tông dùng thiền làm phương pháp kiến tánh, tức là dùng một ý chí cực kỳ mãnh liệt để làm nẩy nở “con mắt thứ ba”, đó là một cách nói để chỉ “huệ nhãn”, “con mắt trí huệ”. Lúc đó, sẽ biết cái “trí huệ thường xem soi, trong ngoài đều sáng thấu biết rõ bổn tâm của mình. Biết rõ bổn tâm tức là giải thoát, tức là bát- nhã tam-muội (= trí huệ chánh định) tức là vô niệm (= biết hết thảy pháp mà không dính mắc). Hiểu rõ pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật, hiểu rõ pháp vô niệm thì đạt đến địa vị của Phật”.
Ở chỗ này kinh Pháp Bảo Đàn có ghi rõ rằng Lục Tổ đã dạy: “… Lòng không nhiễm vướng, dính líu, lui tới, tự-do thông-suốt, tức là bát-nhã tam-muội. Bằng đối với mọi vật cố không nghĩ đến, khiến cho niệm tưởng dứt đi tức là bị pháp ràng buộc, ấy gọi là biên kiến…”
5. Trong hạnh tu lục độ ba-la-mật của Bồ-tát thì trí huệ ba-la-mật được xếp thứ sáu. Nhị trang nghiêm của chư Phật, chư Bồ-Tát là BI và TRÍ. TRÍ đó chính là trí-huệ ba-la-mật vậy. Để đạt đến mức ấy thì theo tam học (giới, định, huệ). Thiền-định như thế nào thì Thiền-Tông đã dạy, qua mấy lời của Lục Tổ trích trên đây. Đọc kinh, ghi chép được như vậy, còn thực hành đến đâu lại là chuyện khác! □
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
Bước Vào Cửa Pht. – Book 1- Montreal 2010
(Hình trên: NN sưu tầm)
Paid Links