14/06: 31. CHÂN TÂM – 32. TAM PHÁP ẤN
Category: Phật Học – Phật học ôn tập-
Posted by: Tbl Đọc: 4278 lần
BƯỚC VÀO CỬA PHẬT
Hoẵng Hữu Nguyễn Văn Phú
31. CHÂN TÂM – 32. TAM PHÁP ẤN
Bài 31. CHÂN TÂM
Chúng tôi đã có dịp trình bày về chữ tâm, nói về cái tâm thường ngày (còn được gọi là chúng sinh tâm). Hôm nay, xin trình bày về chân tâm, khác hẳn cái tâm trên đây. Vì cùng dùng một chữ tâm nên sinh ra khó hiểu, người đọc hay người nghe phải căn cứ vào mạch văn hay câu nói mà luận. Chúng tôi biết rằng đề tài này khó, nên thấy hay nhất là dùng ngay bài Phụ chú về chữ Tâm (chữ T viết hoa) mà cụ Mai thọ Truyền đã cho in vào cuối cuốn Pháp Hoa huyền nghĩa:
Chữ Tâm dùng trong kinh Pháp Hoa đồng nghĩa với chữ Tuyệt đối (Absolu) của Triết học. Tâm ở đây không chỉ một cái gì riêng biệt đang ẩn trong mỗi xác thịt, mà chỉ một cái gì chung cho tất cả chúng sinh. Tâm cũng không có nghĩa một chất gì đó hay một quyền năng nào đó có tài uốn nắn, hóa sanh muôn vật.
Tâm đã là tuyệt đối thì không thể nói tâm là thế này hay…
… thế nọ được.Thí dụ, không được nói Tâm là vô cùng tận vì hễ nói Tâm là vô cùng tận thì những cái gì có giới hạn phải bỏ ra ngoài Tâm, trong khi chỉ có Tâm mới là cái chân thật (Réalité) duy nhất: ta và ngoại cảnh (núi, sông, cây cối, cầm thú…) mà ta tiếp xúc, nhận biết được nhờ ngũ quan môi giới, tất cả những cái ấy không gì khác hơn là Tâm. Nếu bảo Tâm là vô cùng cực tức là để Tâm ra một bên và những cái không phải vô cùng tận như sông núi, cầm thú, thảo mộc … ra một bên khác, hai đằng không dính líu với nhau, thí như nói nước là riêng, sóng là riêng, trong khi nước là sóng, sóng là nước.
Lại nữa, luận đến Tâm mà nói “có”, nói “không” cũng là sai. Phải hiểu vấn đề “hữu” “vô” như thế này. Đứng về phương diện tuyệt đối mà xét thì tất cả là Một và Một đây là Tâm. Muôn vật mà chúng ta nhờ ngũ quan mà biết được, trong tuyệt đối, không thật có. Đó chẳng qua là những gì chất chứa, tổ hợp tạm thời trong một giai đoạn nào đó, để rồi tan rã như bọt nước, như sương mai. Sở dĩ có hợp có tan là do nhân duyên. Mỗi vật (pháp) là kết quả của vô lượng nguyên nhân nối tiếp nhau như một dây chuyền mà không sao tìm ra đầu mối được. Vậy không có một vật nào thường còn mãi mãi, hay tự hóa tự sanh mà không do một số nguyên nhân nào đó. Vạn vật chỉ có trong tương đối và vì vậy mà kinh sách đại thừa hay gọi “phi hữu” (chẳng phải có) rồi tiếp ngay theo, lại nói “phi vô” (chẳng phải không).
Để cho dễ hiểu, chúng ta có thể nói con người (être humain) có ba phần: một là xác thịt, hai là cái “ta” hay “ngã” (le moi), ba là “chân ngã”, cái “ta thật” (le soi réel). Xác thịt không khác mọi vật xung quanh ta, không thật, vì là một hiện tượng giả tạm, do nhân duyên cấu tạo. Cái gọi là “ta” cũng thế, là một trò huyễn thuật, do ngũ uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) mà thành. Cái “chân ngã” mới là Sự Thật tuyệt đối, nó ở ngoài sự nhận biết của ngũ quan, nó là Lý tuyệt đối, trong đó không có sự phân biệt, vì vậy cái “chân ngã” ấy cũng là cái “thực thể” chung cho chúng sinh, cái Chân ngã ấy là Tâm. Ai bảo tôi có Tâm tôi, anh có Tâm anh là sai, chỉ có một Tâm mà thôi (cái tâm của mỗi người là chúng sinh tâm).
Không có cái giả riêng biệt và cái chân riêng biệt. Tất cả muôn sự muôn vật trước mắt ta đều là Tâm cả, tuy là hiện tượng tương đối nhưng đều nằm trong cái Tuyệt đối cả. Vậy cố tình xua đuổi hay phá tan cái “vọng” là một việc làm không ăn thua vào đâu: làm sao tách sóng ra khỏi nước được?
Ta với Tâm (cái Tuyệt đối) đã là một trong lúc này rồi, cũng như anh cùng tử và người con của ông nhà giàu là một chứ không phải hai. Vì không tự nhận, tự biết mình là công tử nên phải sống cuộc đời lầm than: chúng sinh khổ não, bất tịnh, cũng chỉ vì không tự nhận là Phật, là Tâm, là cái Tuyệt đối.
Nhận được là hết chúng sinh, là thành Phật.
Nhưng nếu Phật không chỉ dạy (khai thị) cho thì làm sao chúng ta biết được? Lại nữa, biết chưa đủ, còn cần phải nhận rõ cái sự thật “chúng sinh và Phật không hai” (ngộ) và đi ngay và sống trong cái sự thật ấy (nhập).
Được nghe mấy lời giảng của cụ Chánh Trí, chúng ta hiểu được một phần nào, chúng tôi nói “một phần” bởi vì còn phải suy xét ngẫm nghĩ để hiểu cho kỹ, rồi nhập tâm thì cái biết của tác giả mói thành cái biết của mình (cụ có lẫn chỗ thân và sắc). Vắn tắt lại, cái Tâm nói trong bữa nay là Chân tâm, là Phật tánh, là bản thể của chúng sinh. Tâm ấy đã có sẵn trong chúng ta rồi. Được đức Phật khai thị, chúng ta còn phải ngộ nhập nữa. Nếu nói “tôi biết rằng tôi có Phật tánh”, thì chưa đủ, vì cái Phật tánh ấy bị phiền não che mất rồi. Phải thanh tịnh hóa ba nghiệp thân khẩu ý, nói ngắn là phải tu, thì mới hy vọng ngộ rồi tu nữa thì mới hy vọng nhập Phật tri kiến, tức là Phật tánh.
Trên đây, chúng ta thấy câu “Nhận được Chân tâm là hết chúng sinh, là thành Phật”, nghe có vẻ dễ dàng, mà dễ thật, bởi vì hết mê là tỉnh, mê tỉnh chỉ cách nhau có một sợi tóc, cho nên nói “Phật tức chúng sinh”. Nhưng cái khó là ở chỗ “làm sao cho hết mê, hết phiền não?”. Câu trả lời là “phước huệ toàn vẹn cả hai thì thành Phật”.
Phải tu cả phước lẫn huệ mới đủ. Nếu thấy khó quá thì có một cách, đó là Niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn.
Chú thích. Cụ Chánh Trí nói: Làm sao tách sóng ra khỏi nước được? , ý nói không “phá” được vọng. Chúng tôi nghĩ rằng: Quả thật, người tu hành không tách sóng ra khỏi nước, không phá được sóng nhưng tu, cố làm cho sóng lặng. □
Bài 32. TAM PHÁP ẤN
Vị sư già ngạc nhiên khi nhận được thư mời của quan huyện, lời lẽ ôn hòa, lịch sự hơn điều mà Cụ chờ đợi. Số là từ mấy tháng nay, theo lệnh của triều đình, các sư sãi đều phải đi dự thi, ai không thông suốt kinh điển Phật giáo, ai thiếu đạo hạnh thì phải đuổi về làm thường dân, không được mặc áo cà-sa nữa. Triều đình làm vậy cũng có lý do, vì từ lâu chùa chiền mọc ra quá nhiều, người xuất gia không đủ học và hạnh đã biến Phật giáo thành một thứ tôn giáo tạp nhạp, mê tín dị đoan.
Cụ không nằm trong số những người phải gọi đi thi, có lẽ Quan huyện cũng đã nghe Cụ là người đạo hạnh. Trong vùng, mọi người đều quý mến và kính trọng Cụ. Nay, được thư của quan huyện – một vị thái học sinh, thông suốt tam giáo – Cụ ngạc nhiên là phải..
Người lính lệ lễ phép chào Cụ và thay vì dẫn Cụ vào công đường thì lại mời Cụ vào tư thất của Quan huyện. Ông quan và vị sư già nghiêm chỉnh thi lễ và câu chuyện bắt đầu.
– Bản chức mời Thượng Tọa đến đây không phải là vì lịnh của triều đình đâu. À! Hôm trước, tên lý trưởng tự tiện đến chặt tre của chùa về làm chuồng heo, chú tiểu ra ngăn thì hắn nói chùa này là do mẹ hắn sáng lập và cúng ruộng hậu nên hắn có muốn chặt tre cũng không có ai cấm hắn được. Có đúng thế không?
– Dạ, thưa Ngài, quả có thế, nhưng sau đó không có chuyện gì nữa ạ.
– Thôi được, để đó, tôi sẽ xét. Bây giờ xin nói rõ mục đích của tôi. Mẹ tôi thờ Phật, tụng kinh hàng ngày và vẫn nghiên cứu kinh điển. Gần đây, Mẹ tôi có đề cập đến Tam Pháp Ấn, nên tôi thỉnh Thượng Tọa vui lòng giảng giải, để tôi có dịp thưa lại với Mẹ tôi sau này.
Vị sư già hiểu ngay rằng quan huyện muốn đi vào một điểm quan trọng trong giáo lý của đức Thế Tôn và ông chẳng phải là một người ít hiểu biết về Phật pháp. Lại nữa, một chồng hồ sơ trên án đủ nhắc nhở nhà sư rằng vị quan này không có nhiều thì giờ. Rõ ràng chủ ý của ông là muốn nghe đầy đủ nhưng ngắn gọn. Vị sư già hắng giọng và vào đề ngay:
– Thưa Ngài, tam pháp ấn là từ ngữ để tóm tắt ba điều căn bản của giáo lý đạo Phật; kinh kệ nào thuận với ba điều ấy thì coi như được đóng ấn chứng nhận là chính thống. Ba điều ấy là : vô thường, vô ngã, và niết- bàn. Nói rõ là chư hành vô thường, chư pháp vô ngã và niết-bàn tịch tĩnh.
Đầu tiên nói về vô thường. Người đời vẫn nói “bóng câu qua cửa sổ”, “sớm nở, tối tàn”, đó là một cách hiểu chữ “vô thường”. Hiểu thế chưa đủ, và có thể mang lại hậu quả không mấy tốt: đó là chán đời phù du, hay mau hưởng thụ, hoặc cầu khẩn cho sống được lâu. Thật ra thì mọi sự, mọi vật đều vô thường, có nghĩa là mọi sự mọi vật đều thay đổi luôn luôn. Sự thay đổi đó có thể nhanh chóng như bông hoa nở rồi tàn; có thể chậm như trái núi mòn dần do sóng biển táp vào từng lúc, và cả cái thân xác ta đây, tâm tính ta đây cũng thay đổi luôn luôn. Luật “thành, trụ, dị, diệt” là luật chung của vũ trụ.
Quan huyện nói: “Vâng, biến dịch! Cái quy luật ấy người đời có lẽ ai cũng nhận thấy. Chẳng hay tầm quan trọng của nó đối với người con Phật là như thế nào?”
– Thưa Ngài, quả vậy, trước đức Thế Tôn, người ta đã nói đến biến dịch rồi. Có người đi xa hơn nữa, cho rằng vạn vật biến dịch nên chẳng còn tin vào cái gì nữa; ngay cả lời nói cũng đổi nghĩa luôn nên chẳng tin được! Ta hãy gác sang một bên những tư tưởng cực đoan ấy để nói về tầm quan trọng của cái luật vô thường tuy đơn giản nhưng lại là cơ bản. Đúng vậy, mọi thứ đều biến dịch, thế thì chúng ta phải tìm cách mà thay đổi theo hướng tiến lên, theo chiều chân, thiện, mỹ. Tóm lại, là làm cho mình trở thành Phật. Chỗ tột cùng là ở đó, không phải là ở chỗ “quán vô thường” để chỉ biết tính cách vô thường của thế gian mà thôi. Người thế gian hay quên sự thăng tiến, sự thiện hóa của con người, cho nên khi lăn vào cuộc sống có lúc đã làm cho chính mình tụt xuống hàng súc sinh hay ngạ quỷ trong kiếp này; súc sinh vẫn ăn thịt nhau, nhưng con người thì giết nhau còn khủng khiếp hơn cả súc sinh! Nếu giác ngộ rằng mình phải theo Phật đạo, thì đó là theo đúng con đường tiến lên của kiếp nhân sinh vậy.
– Đa tạ Thượng Tọa. Xin cho nghe về điều thứ nhì.
– Thưa Ngài, xin nói về vô ngã. Nôm na, vô ngã là không có ta. Điều này có vẻ tối nghĩa. Ngài ngồi đây, tôi ngồi đây, chúng ta đang bàn bạc. Nói rằng không có Ngài, không có tôi, vô lý lắm ru! Nhưng, chắc Ngài đã biết rồi, “vạn pháp vô ngã” có nghĩa là: sự sự vật vật trên thế gian này không có tự thể. Dùng chữ như vậy, có lẽ ta đã đem cái khó hiểu nọ thay cho cái khó hiểu kia. Thế thì chúng ta nên đồng ý với nhau mà nói như thế này: sự sự vật vật trên trế gian không có cái gì riêng rẽ với cái gì, cái gì cũng bị trói buộc, bị liên hệ với những cái khác. Cái đám mây kia có quan hệ với Ngài và tôi nhiều lắm vì nó đem mưa đến, mưa làm ruộng lúa xanh tươi, và ruộng lúa đưa gạo đến nuôi Ngài và tôi.
– Thưa Thượng Tọa, tôi lại muốn nói lại câu hỏi lúc nãy. Luật “vạn pháp vô ngã” có tầm quan trọng ra sao đối với người Phật tử?
– Thưa Ngài, bước thứ nhất, người Phật tử hiểu vô ngã để loại bỏ dần tính ích kỷ, loại bỏ dần “cái ta”, cái “của ta”; bước thứ nhì, người Phật tử hiểu vô ngã để biết mình và chúng sinh là một, nhờ đó phát triển tâm từ bi, yêu chúng sinh như yêu mình. Đức Khổng Tử dạy nhân ái, yêu người như yêu mình; đức Thế Tôn dạy yêu chúng sinh như yêu mình, vì “tất cả là một”, “một là tất cả”, như kinh Pháp Bảo Đàn đã nói. Đến bước thứ ba, người Phật tử hiểu vô ngã, tiến lên hiểu “nhất chân bình đẳng pháp giới”, đi tìm cái thực tướng của vạn pháp, cái chung cho tất cả cái một của sự vật. Do đó, hàng ngày tụng Bát-nhã Tâm Kinh, cố gắng đến một ngày nào đó bật ra cho được “thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”, cố gắng đến một ngày nào đó tìm ra cho được cái thường, cái hằng nằm ngay trong các pháp hữu vi vô thường mà Kinh Kim Cang gọi là “bọt nước, điện chớp”.
– Thưa Thượng Tọa, tìm thực tướng của vạn pháp, cái tướng mà không phải là tướng, cả một vấn đề lớn!
– Quả thế! Thưa Ngài. Nhưng khoan, chưa nên đi sâu vào điểm đó, vì đó là một dấu ấn khác của đạo Phật. Đó là “Thực Tướng Ấn” mà hôm nay ta chưa bàn đến, vì lẽ Ngài đang muốn nghe Tam Pháp Ấn. Tôi xin nói tiếp về điểm thứ ba, tức là nói về Niết-bàn. Nói “Đức Phật nhập Niết-bàn”, người ta thường nghĩ đến “đức Phật viên tịch, đức Phật chết” ở gốc cây sa-la. Nói đến Kinh Niết-bàn, người ta thường nghĩ đến kinh mà đức Phật thuyết khi sắp giã từ cõi đời này. Vì thế, nói đến Niết-bàn người ta hay tưởng tượng ra một cõi nào đó, an lạc, sung sướng, không khổ não … Thật ra, nên hiểu “Niết-bàn tịch tĩnh” như thế này. Ý thứ nhất, đó là trạng thái của người đã diệt được tham, sân, si, tức là ba cái độc làm cho con người tạo nghiệp, đễ bị chìm đắm mãi trong vòng luân hồi sinh tử. Ý thứ nhì, đó là trạng thái diệt được cái ngã, mình và vũ trụ hòa lại làm một. Ý nghĩa thứ ba, đó là thoát khỏi sinh tử luân hồi. Cả ba ý đó rút lại là chấm dứt khổ đau phiền não, thoát vòng luân hồi, giác ngộ Chân Lý, tức là đạt “đệ nhất nghĩa đếâ” vậy.
– Thưa Thượng Tọa, làm cách nào đạt được đến trạng thái đó?
– Thưa Ngài, hiểu được lời Phật dạy, là hiểu giáo lý của Ngài. Muốn đi theo con đường của Ngài – con đường giải thoát – thì phải thực hành giáo pháp của Ngài. Một mặt là lý nhập, một mặt là hạnh nhập, nói dễ hiểu là lý thuyết và thực hành. Người con Phật phải đặt việc thực hành vào hàng chính yếu vì trong kinh đã nói: “đói mà không ăn, chỉ nhìn người khác ăn, thì chính mình no sao được?”. Ai tu người đó hưởng, không ai tu hộ được.
– Tu thế nào, thưa Thượng Tọa?
– Thưa Ngài, bài pháp đầu tiên của đức Phật dạy về Tứ Diệu Đế, đế thứ tư nói về Bát Chánh Đạo gọi tắt là Trung Đạo (chứ không phải là đạo Trung Dung của đức Vạn Thế Sư). Lại có kinh giảng về Thập Nhị Nhân Duyên, mục đích giảng lý do có sự luân hồi. Lại có chổ dạy Lục Độ Ba-la-mật. Trong đạo Phật, có nhiều cách tu, nhiều đến nỗi gọi là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”.
– Tôi có tu được không?
– Ai ai cũng có Phật tính, ai cũng có khả năng thành Phật, Ngài cũng tu được chứ.
Quan huyện cười, mời nhà sư uống trà và hẹn:
– Đa tạ Thượng Tọa đã cho nghe về Tam Pháp Ấn.
Nhà sư từ biệt quan huyện, chầm chậm đi về chùa… □
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
Bước Vào Cửa Phật – Book 1 – Montreal 2010
(Hình : NN sưu tầm )
Paid Links