14/09: Bài 59.Cầu Siêu – Bài 60. Đại Thừa và Tiểu Thừa

14/09: 59.Cầu Siêu – 60. Đại Thừa và Tiểu Thừa
Category: Phật Học – Phật học ôn tập-
Posted by: lenhac Đọc: 5020 lần
BƯỚC VÀO CỬA PHẬT- Book I
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú

BÀI 59. CẦU SIÊU
Lần trước, chúng tôi đã nói chuyện về đề tài Niệm Phật, trả lời câu hỏi : “Ông niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, khi ông chết rồi thì ai lên Cực Lạc?”; tôi đã nhấn mạnh đến vai trò của thức a-lại-da và mô tả thân trung ấm, kéo dài tối đa 49 ngày trước khi sang một kiếp mới. Sau đó, tôi đã nói mấy điều về việc cúng bẩy tuần, cầu siêu cho vong linh người quá vãng.
Mấy ngày sau, chúng tôi được một đạo hữu cho coi một bài báo trích đăng ý kiến của HT Thích Thanh Từ về vấn đề cầu siêu, đại ý không tán thành và cho rằng cầu siêu là nặng về tin mà thiếu trí. Bài báo này chép lại một vài trang trong cuốn Nền Tảng của Đạo Phật.
HòaThượng nói: “Còn lúc chết, nếu cầu được siêu, thì chắc ngày xưa đức Phật đi cầu siêu liên miên phải không? Vì ngài độ chúng sanh mà! Nhưng quý vị đọc lịch sử đức Phật, thấy có đám ma nào đức Phật đi cầu siêu…
… không? Chưa từng thấy. Phật từ bi đáo để, muốn độ hết chúng sanh, mà Phật không cầu siêu. Như vậy mà chúng ta hướng dẫn Phật tử chỉ biết cầu, mà không biết tu”.
HòaThượng nhắc lại chuyện ngài Xá-Lợi-Phất đến thăm ông Cấp Cô Độc khi ông này gần tịch. Ngài Xá-Lợi-Phất không có lập đàn cầu an, Ngài chỉ hỏi ông Cấp Cô Độc và nhắc lại cho ông những gì mà ông đã hứa, đã tu, cho ông nhớ như sau :
“- Trưởng giả lúc bình thường tu những pháp gì? Có giữ được năm giới không?
– Con giữ trọn vẹn năm giới.
– Trưởng giả có tu được sáu pháp không? (sáu pháp là bố thí, nhẫn nhục v.v…)
– Dạ, con tu pháp đó được rồi.
– Như vậy, trưởng giả, ông đừng ngại. Đó là ông sẽ đi con đường lành, không phải sợ hãi chi hết.
Rồi ngài Xá-Lợi-Phất ra về, không có tụng bài kinh nào”.
HòaThượng nói tiếp rằng: “Còn chúng ta bây giờ cứ lo tụng kinh, không biết cầu có được hay không … Tụng rồi phục nguyện, vậy là xong. Mà đặt nặng là cầu nguyện. Đã nặng về cầu nguyện thì nặng về lòng tin. Mà lòng tin thì không hợp với trí tuệ. Tin thì không có trí. Trí thì không có tin …”.
Ý kiến của HT Thanh Từ có thể làm cho nhiều người thắc mắc. Chúng tôi căn cơ thấp, không dám lạm bàn về ý kiến của một vị cao tăng. Gần đây, TT Thích Phước Nhơn, viện chủ Thiền Viện Phổ Quang ở Tây Úc, trong quyển Thiền Tịnh quyết nghi xuất bản năm 1999, đã có một số câu trả lời thắc mắc của Phật tử, được đăng lại trong Bản Tin của chùa Khánh Anh Paris, tháng Giêng năm 2000, nơi trang 10. Để cho quý đạo hữu đỡ thì giờ tìm kiếm, chúng tôi xin ghi tóm tắt ra đây.
Hỏi : HT Thanh Từ cho rằng tụng kinh cho người chết không đem lại lợi ích gì và quý thày đi tụng kinh là không phải đi làm Phật sự, như vậy là thế nào?
Đáp : (tóm tắt) Chúng sanh vô lượng nên phương tiện độ sanh cũng phải vô lượng; không phải ai cũng có thể thấy tánh và thành Phật trong một đời. Vì căn cơ chúng sanh khác nhau nên nên Phật phương tiện giảng pháp khác nhau, do đó có ngũ thừa; lúc đúng thời thì chỉ còn nhất thừa, như vào thời kinh Pháp Hoa.
Trên trái đất có hơn sáu tỉ con người, nếu không tùy duyên tùy cơ mà ứng hóa thì có bao nhiêu chúng sanh hướng về đạo, có bao nhiêu người thấy tánh? Trong số gần tám chục triệu dân Việt Nam, đặc biệt là những người còn đang lo kiếm bữa cơm hàng ngày, có bao nhiêu người hiểu tứ diệu đế, bát chánh đạo, chưa nói đến điều cao siêu như lý Không của Bát-nhã. Nếu không nhờ sáu chữ Nam-Mô A-Di-Đà Phật thì họ sẽ thế nào? Họ không thể thành Phật hay sao? Căn cơ khác nhau, phước đức khác nhau, nên hàng thượng căn có người một đời chứng được thánh quả, còn những người bình thường hoặc hàng phước mỏng tội dày lúc lâm chung hoặc sau khi lâm chung, nhờ được nghe tụng kinh niệm Phật, có thể phát tâm xa lìa ác nghiệp quay về theo đường thiện, đó là việc làm lợi lạc cho chúng sanh sao gọi là không có công đức, không phải là làm Phật sự ! Khi tụng kinh giúp cho hương linh quay về đường thiện, lại là cơ hội giúp cho thân quyến bạn hữu người quá vãng từ trước chưa hề được nghe giáo pháp nay phát tâm đối với đạo, như vậy chẳng là làm Phật sự ư?
Không phải chỉ hướng dẫn cho người ngồi thiền, đăng đàn thuyết pháp, xây chùa đúc tượng mới là làm Phật sự. Bất cứ một hành động, một cử chỉ nào khiến cho chúng sanh biết quay về đường thiện, biết quay về nương tựa nơi Tam Bảo đều được gọi là làm Phật sự.
Tụng kinh nơi đám ma cũng là trải lòng từ bi đến chúng sanh. Bi là giúp cho người bớt khổ, hết khổ. Gia đình người bệnh nặng, hoặc người mới chết đang lo lắng đau khổ, nhờ nghe thời kinh mà bớt khổ đau, vậy tụng kinh là làm Phật sự. Khi người ta đã bớt khổ đau, hướng dẫn người ta đi về niềm an lạc của đạo, như thế là thực hiện tâm bi, là làm Phật sự.
Nói rằng khi sống chẳng chịu ngồi thiền tu niệm thì khi chết thỉnh thày tụng kinh, có ích lợi gì? Nói thế là quá ích kỷ. Không phải ai cũng đủ duyên để tu, tiếc gì một thời kinh mà không bố thí khi người ta gần chết hay mới chết để giúp người ta hướng thiện!
Người tu thiền tập hít thở trong quán niệm, với mục đích tìm lại tâm chân thật mà mình đã bỏ quên. Như thế đối với sự tụng kinh niệm Phật thì có gì gọi là khác biệt trong lúc tìm lại tâm mà bảo rằng ngồi lặng thở hít quán chiếu thì đem lại kết quả thiết thực cho người tu, còn tụng kinh niệm Phật thì ồn ào náo nhiệt làm cho loạn tâm, không đem lại kết quả gì.
Phẩm thứ 12 tức là phẩm Hiền Thủ trong kinh Hoa Nghiêm, có đoạn: “ … Khi có người sắp lâm chung, thì ta khuyên họ niệm Phật (A-Di-Đà), lại đem tượng Phật để trước mặt cho họ xem, khiến cho người đó đối với Phật phát tâm quy ngưỡng”. Thế thì ai dám bảo tụng kinh niệm Phật cho người lâm chung là không có lợi ích, là không phải làm Phật sự!
Riêng phần chúng tôi, xin thêm rằng câu chuyện mà HT Thanh Từ trích trong kinh A Hàm là một câu chuyện thời đức Phật còn tại thế, ngài Xa-Lợi-Phất là một đại đệ tử đã đạt đạo quả, ông Cấp Cô Độc là một đại cư sĩ tu chứng bậc cao, đã có lần thảo luận cùng ngài Đại Trí Văn-Thù-Sư-Lỵ. Chư tăng ngày nay chưa phải là ngài Xá-Lợi-Phất, Phật tử ngày nay đã ai sánh nổi với ngài Cấp Cô Độc, chắc hẳn là theo không nổi hai ngài rồi. Vì thế mới có 84 ngàn pháp môn nhằm giác ngộ và giải thoát để cho vô lượng chúng sanh tùy căn cơ mà “vào” đạo.
Để kết thúc, chúng tôi xin tóm tắt mấy điểm chính như sau :
– Khi một người chết đi thì không phải là hoàn toàn tan rã hết. Còn lại một thứ vô hình, đó là a-lại-da-thức, nói gọn là thần thức.
– Thần thức mang cái nghiệp của người mới chết sang một kiếp mới.
– Thời gian từ lúc chết đến lúc vào một kiếp mới (tái sanh) kéo dài tối đa là 49 ngày.
– Khi vừa chết xong, thần thức thấy một thứ ánh sáng hiện ra trong một khoảnh khắc, đó là Pháp Thân. Tuy nhiên, chỉ những vị tu hành đắc đạo mới nhận được và đi theo (vậy là được giải thoát), còn tuyệt đại đa số lúc ấy còn đang luống cuống nên bỏ lỡ cơ hội.
– Thân trung ấm (gọi là thân nhưng không phải là vật chất) thấy nhiều cảnh, song tất cả đều do nghiệp cũ chiêu cảm ra. Đáng nhớ nhất là: các loại ánh sáng chói chang là ánh sáng của chư Phật, các loại ánh sáng mờ nhạt là ánh sáng của các cảnh giới thấp.
– Những ai đã được chuẩn bị, tu tập từ lúc còn sống, gây nghiệp lành, thì có nhiều hy vọng. Đặc biệt là những ai đã phát nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, đã chăm chỉ niệm danh hiệu Phật A Di Đà và tin sâu vào lời nguyện của Ngài thì sẽ thấy ánh sáng màu đỏ của Ngài, cứ thế mà theo về phía đó thì được vãng sanh Tịnh Độ của Ngài. Niệm Phật là huân những ý nghĩ về Phật vào a-lại-da càng nhiều càng hay, làm át các chủng tử xấu, đến lúc chết thì chỉ toàn là ý nghĩ về Phật mà thôi.
– Gia quyến làm lễ cầu siêu nhằm mục đích giúp cho hương linh bình tĩnh và quay về với Phật. Kinh Dược Sư nói rằng hương linh được hưởng 1 phần 7 của công đức cầu siêu. Hơn nữa gia quyến phải thành tâm, lo bố thí, tụng kinh, niệm Phật luôn luôn để hồi hướng công đức tới hương linh giúp cho hương linh thấy đường theo Phật hay ít ra được theo đường lành.
Còn nhiều chi tiết và thắc mắc, nếu quý đạo hữu muốn biết thật rõ thì có thể tra cứu trong cuốn Tạng Thư Sống Chết do sư cô Trí Hải dịch từ cuốn The Tibetan Book of Living and Dying của Sogyal Rinpoche. Sống, chết là một việc lớn của con người, tất cả chúng ta nên để tâm suy nghĩ và thực hành cho đúng. □
60. ĐẠI THỪA và TIỂU THỪA
Đức Phật Thích-Ca thuyết pháp trong 45 năm, từ lúc ngài thành đạo năm 35 tuổi cho đến lúc ngài nhập diệt năm 80 tuổi. Khi thuyết pháp, ngài dùng tiếng pali là tiếng bình dân lúc đó tại Ấn độ. Ngài không viết nên không để lại bút tích. Sau khi đức Phật nhập diệt tám tháng, ngài Ca-Diếp triệu tập hội nghị để “soạn” kinh điển trong một động đá gần thành Vương Xá, đó là kiết tập pháp – gọi ngắn là kiết tập hay kết tập – lần thứ nhất. Chúng ta nên nhớ rằng ngài Ca-Diếp là người được đức Phật truyền y bát làm tổ thứ nhất. Trong cuộc kiết tập này, gồm 500 vị, ngài A-Nan thuyết Kinh, ngài Ưu-Bà-Ly đọc Luật và ngài Ca-Diếp tụng Luận (có việc tụng Luận hay không, còn trong vòng nghi ngờ). Như vậy là đủ bộ Tam tạng, là: Kinh, Luật, Luận. Chỉ đọc tụng thôi, chưa viết ra. Chúng ta khâm phục trí nhớ của các ngài, mà thật ra đắc đạo như các ngài thì tinh thần rất sáng suốt, trí nhớ thật là mạnh, ngài Ưu-Bà-Ly đọc Luật mấy chục lần không sai chút nào. Mỗi khi chúng ta tụng kinh, thấy mở đầu bằng câu “Tôi nghe như vầy” đó là lời của ngài A-Nan. Trong khoảng hơn một trăm năm, có thể nói rằng giáo pháp không khác thời đức Phật còn tại thế. Thời kỳ này được gọi là Phật giáo nguyên thủy.
Có một số tăng sĩ không giữ đủ giới luật, nên cao tăng Da-Xá nhờ người khuyên bảo. Họ không nghe, lấy lý do là phải theo hoàn cảnh mỗi thời. Vì thế ngài Da-Xá triệu tập kiết tập lần thứ nhì quy tụ 700 vị tại thành Tì-Xá-Ly. Nhóm trẻ tổ chức họp riêng, quyết định sửa một số các điều Luật. Họ làm thành Đại chúng bộ, trong khi các vị nói trên kia làm thành Thượng tọa bộ; tạm coi như một đằng là tiến bộ, một đằng là bảo thủ gồm các vị cao tăng có uy tín. Đại chúng bộ có đến 8 bộ phái, Thượng tọa bộ có 10, ấy là chưa kể mươi bộ phái độc lập nữa. Có lẽ vì Tam tạng vẫn chỉ là do truyền miệng nên người ta dễ giải thích theo ý riêng. Thời kỳ này kéo dài cho đến khoảng 400 năm sau khi đức Phật tịch diệt. Đó gọi là thời kỳ bộ phái. Còn hai kỳ kiết tập nữa, có ghi chép lại.
Sau đó, có nhiều lý thuyết gia lập ra Đại thừa, gọi Phật giáo trước đó là Tiểu thừa. Dĩ nhiên, các bộ phái không nhận tên đó. Tên Phật giáo nguyên thủy là do ý rằng theo đúng lời dạy của đức Phật, không đi chệch chút nào.
Thừa hay thặng nghĩa là cái xe, hàm ý chở người từ nơi này (mê) đến nơi kia (ngộ). Tiểu là nhỏ, hẹp, thấp. Đại là lớn, rộng, cao. Ngay từ định nghĩa này, chúng ta thấy tính cách miệt thị đối với tiểu thừa và chúng ta thông cảm với sự bực bội của các thừa khác. Ngày nay, để hòa hợp, danh xưng đại thừa và tiểu thừa đã bị hủy bỏ, người ta dùng chữ Bắc tông và Nam tông, dựa vào địa dư: Đại thừa đi từ Ấn Độ lên phía Bắc, lan sang Tây tạng, Mông cổ, Cao ly, Trung hoa, Nhật Bản và Việt Nam; Tiểu thừa đi từ Ấn độ xuống phía Nam là Tích lan, lan sang Miến Điện, Thái lan, Cao Mên, Lào…
Nói chung, giáo lý cơ bản thì giống nhau: – Giáo chủ là đức Phật Thích-Ca. – Tứ diệu đế. – Thập nhị nhân duyên – Nhân quả luân hồi. – Vô thường, khổ, vô ngã. -Không có một đấng tối cao sinh ra vạn vật. – Không có linh hồn trường cửu và bất biến.
Có những sự khác biệt nào giữa hai tông?
Thứ nhất là về thờ phụng: Nam tông chỉ thờ có một đức Phật Thích-Ca mà thôi, đó là vị Phật hiện hữu thật sự trên trái đất này. Nam tông cho rằng phải tu theo lời Phật dạy, tự lực mà đạt đạo quả. Bắc tông thờ nhiều Phật, bồ-tát, các vị này tuy không ở trên trái đất chúng ta nhưng ở trên những quốc độ khác, do Phật Thích-Ca giới thiệu cho chúng ta biết. Người tu có thể nhờ tha lực mà tu hành. Ngoài ra còn có thuyết tam thân: vị Phật nào cũng có ba thân là pháp thân, hóa thân và báo thân.
Thứ nhì là về kinh sách: Nam tông chỉ dùng Tam Tạng (Kinh, Luật, Luận) tiếng pali. Về phần Kinh (Nikàya) thì có: Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tương ưng bộ kinh, Tăng chi bộ kinh, Tiểu bộ kinh. Bắc tông dùng tất cả các kinh nói trên, gọi chung là kinh A-Hàm (Agama; bộ kinh A-Hàm chữ Hán được dịch từ chữ sanskrit), cộng thêm rất nhiều kinh nữa như Hoa nghiêm, Pháp Hoa, Viên giác, Lăng Nghiêm, Lăng-Già, Bát-nhã vv… Bộ Luận của Bắc tông hết sức phong phú.
Thứ ba là về tu chứng: Nam tông cho rằng đạo quả cao nhất mà hành giả có thể đạt được là a-la-hán, thanh văn, duyên giác. Tu tại gia thì không lên tới bậc đó được. Nam tông nhằm đạt đến ngã không (cái ta là không). Tu để giải thoát cho mình thôi (điều này không có căn cứ). Ngược lại, Bắc tông nghĩ rằng có thể tu thành Phật nghĩa là lên ngang với giáo chủ của mình. Bắc tông nhắm đạt tới cả hai điều ngã không và pháp không và đưa ra lý thuyết bồ-tát đạo, “sắn tay áo đi vào chợ”, “chúng sinh bao nhiêu xin độ hết”.
Thứ tư là về hệ thống: Nam tông đặt nặng địa vị của tăng sĩ. Đó coi như một “giai cấp”, chỉ riêng tăng chúng mới có thể đạt được thánh quả a-la-hán, người tại gia thì không; vậy nghĩa là có bất bình đẳng. Không quan niệm rằng có pháp thân Phật và Phật tánh. Một số tu viện thật là lớn; tại vài nước, Phật giáo là quốc giáo. Bắc tông bình đẳng hơn, ít cách biệt giữa tăng sĩ và phật tử. Ai ai cũng có Phật tánh, ai ai cũng có thể tu thành Phật. Tăng sĩ không khất thực, làm lấy mà ăn. Những điều này chưa được mọi người chấp nhận.
Đại khái Đại thừa và Tiểu thừa, tức Bắc tông và Nam tông, là như vậy. Trong mỗi tông lại chia ra nhiều tông phái nhỏ, thí dụ: người ta kể rằng ở Trung Hoa có Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông, Thiên thai tông, Hoa nghiêm tông, Luật tông, Câu xá tông, Thành thực tông, Tam luật tông, Pháp tướng tông. Nhưng ngày nay, trên thực tế, chỉ còn lại Tịnh độ tông, Thiền tông và Mật tông; ở nước ta cũng như thế. Trong kinh Pháp Hoa, ta thấy đức Phật nói rằng chỉ có một thừa là Phật thừa!
Nhìn vào tình trạng Phật giáo Việt Nam ta trong nước và ngoài nước, chúng ta có nhiều suy nghĩ, hy vọng có, mà lo lắng cũng có. Tuy nhiên, việc ấy ra ngoài đề ngày hôm nay, xin nói sau, khi có dịp. □
Bài đọc thêm:
VÌ SAO GỌI LÀ ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA ?
Trích từ Phật Giáo Chính Tín của Hòa thượng Thích Thánh Nghiêm (Trung Hoa). Viện Nghiên Cứu Phật Học dịch
Trong thời Phật tại thế, vốn không có phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa. Phật pháp chỉ có một vị thuần nhất. Chỉ do đối tượng thuyết pháp không giống nhau cho nên nội dung và cảnh giới thuyết pháp cũng khác nhau mà thôi.
Phật giáo theo Đại thừa chia thành năm thừa: Nhân thừa (Phật giáo cho loài người), Thiên thừa (Phật giáo cho loài trời), Thanh văn thừa, Độc giác thừa và Bồ-tát thừa.
Tu theo 5 giới và 10 điều thiện ở bậc cao (thượng phẩm) thì sẽ được sinh lên các cõi trời. Tu theo 5 giới 10 điều thiện ở bậc trung bình (trung phẩm) thì sẽ được sinh làm người. Tổng hợp cả hai lại, gọi chung là con đường tu tập của loài người và loài trời. Hàng Thanh văn nhờ nghe pháp tu hành mà được giải thoát khỏi sinh tử. Hàng Độc giác không nghe pháp, không có thầy mà tự mình giác ngộ, được giải thoát khỏi sinh tử. Tổng hợp cả hai lại, gọi chung là con đường giải thoát của nhị thừa.
Con đường Bồ-tát là chủ trương vừa cầu giải thoát, vừa không tách rời con đường loài người và loài trời, do đó con đường Bồ-tát Đại thừa là con đường tổng hợp cả hai con đường giải thoát sinh tử và con đường tái sinh của loài người và loài trời.
Tu theo 5 giới và 10 điều thiện trong con đường loài người và loài trời thì vẫn còn là phàm phu. Người tu hành, chứng đạo giải thoát không còn luân hồi sinh tử nữa, mới gọi là bậc Thánh. Vì chỉ lo lắng cho bản thân mà cầu Phật pháp để được giải thoát, không có tâm nguyện quay trở lại cứu độ chúng sinh, cho nên gọi là Tiểu thừa. Con đường Bồ- tát gọi là Đại thừa, vì lập luận rằng vị Bồ-tát, trên thì cầu đạo Phật vô thượng để giải thoát khỏi sinh tử, dưới thì phát nguyện độ thoát vô lượng chúng sinh để cùng thoát khỏi biển khổ sinh tử.
Về mặt phân bố địa lý mà nói, thông thường gọi là Phật giáo Đại thừa, hay Phật giáo Bắc truyền, theo văn hệ Sanskrit, lấy Trung Hoa làm trung tâm, bao gồm các nước như Nhật Bản, Đại Hàn, Mông Cổ, Tây Tạng, Việt Nam. Phật giáo Nam truyền, còn gọi là Phật giáo Tiểu thừa, dùng kinh điển thuộc văn hệ Pali, lấy nước Tích Lan làm trung tâm và bao gồm các nước như Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam.
Thực ra, đó chỉ là sự phân biệt của riêng Phật giáo Bắc truyền mà thôi, còn Phật giáo Nam truyền thì không công nhận sự phân biệt đó. Đấy là do, trong Luật tạng của Hữu Bộ, quyển 45 và Tạp A Hàm quyển 28 trang 69 đều có ghi danh từ “đại thừa” để chỉ những người tu theo Bát chính đạo và Tạp A Hàm quyển 26 trang 204 dùng danh từ “đại sĩ” chỉ cho những người tu hạnh Bốn nhiếp pháp. Tăng nhất A Hàm cuốn 19 cũng nói rõ sáu độ (ba-la-mật) thuộc về “đại thừa.”
Phật giáo Bắc truyền, trong lĩnh vực lý luận, có phần phát huy hơn Phật giáo Nam truyền, thế nhưng về mặt thực tiễn sinh hoạt thì Phật giáo Bắc truyền không phải theo Đại thừa, và Phật giáo Nam truyền cũng không phải theo Tiểu thừa. Phật giáo Trung Quốc, ngoài việc ăn trường trai ra, cũng không có gì xuất sắc hơn Phật giáo Nam truyền. Phật giáo Trung Quốc do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang và lối học nói suông chuyện thanh cao (huyền học tham đàm) cho nên cũng bị lớp sĩ phu đời Ngụy Tấn đối đãi như là một thứ huyền học để tiêu khiển. Lý luận của các tông phái ở Trung Quốc như Thiên Thai Tông và Hoa Nghiêm Tông đều chịu một phần ảnh hưởng của học phong này. Chính vì vậy, một học giả Nhật Bản cận đại, ông Mộc Thôn Thái Hiền (D. T. Suzuki), phê bình Phật giáo Trung Quốc là loại Phật giáo học vấn, không phải là Phật giáo thực tiễn. Phê bình như vậy, không phải là không có lý do. Trên sự thực, cấu trúc tư tưởng của Hoa Nghiêm Tông và Thiên Thai Tông đều xuất phát từ cảnh giới chứng ngộ của các cao tăng Trung Hoa, chứ không có y cứ đầy đủ trên nền tảng giáo lý của truyền thống Phật giáo Ấn Độ.
Do đó, có thể nói tinh thần “bồ-tát đại thừa” chân chính của Phật giáo Trung Quốc cho đến nay vẫn chưa phổ cập đến dân gian Trung Quốc, chứ đừng nói gì làm nơi quy tụ của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc! Vì vậy mà có người nói Phật giáo Trung Quốc về tư tưởng là Đại thừa, về hành vi là Tiểu thừa.□
Bài đọc thêm:
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHẬT GIÁO
Trước tiên, chúng ta sẽ trình bày sơ lược về lịch sử Phật giáo để có được một cái nhìn tổng quát về Phật giáo cổ đại. Mục đích tối hậu của chúng ta là đào sâu giáo lý uyên nguyên để tìm lại Chánh Pháp, để tìm ra sự thật, để thấy cái thực.
Từ khi Phật thành đạo, thuyết pháp, giảng kinh cho đến khi Ngài Niết-bàn, tạm gọi là thời kỳ nguyên thủy I. Thuở ấy giáo pháp được nói từ kim khẩu của Đức Thế Tôn, mà bao giờ cũng nói thẳng, chỉ thẳng, nói bằng một ngôn ngữ đại chúng, phổ biến, giản dị, ai cũng có thể thấy để thực tri, thực hành và thực chứng. Có thể nói giai đoạn này là giọt nước tinh nguyên đầu nguồn của giáo pháp.
Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn kéo dài trên 200 năm, với 3 lần kết tập Tam tạng(1) giáo pháp vẫn còn giữ được tính chất nguyên thủy của đạo Phật, mặc dầu bấy giờ đã bắt đầu manh nha một vài kiến giải sai biệt, nên tạm coi đây là thời kỳ nguyên thủy II, tức là một đạo Phật vẫn còn nguyên thủy do các bậc Trưởng lão Thánh Tăng trùng tuyên.
Rồi sau đó là thời kỳ phân phái. Các tông phái đua nhau xuất hiện cùng với những luận điểm sai khác về giáo lý Đức Phật. Phật giáo sử có ghi lại tên tuổi của những học phái này, con số lên đếùn 18 hoặc 25. Đó là khái niệm về một thời kỳ vườn hoa đua nở hay là thời kỳ của tư tưởng tràn bờ.
Trong thời kỳ phân phái này có thể ghi nhận 3 khuynh hướng:
• Khuynh hướng duy trì giáo lý nguyên thủy của Đức Phật do các vị trưởng lão chủ trương, nên đã trở thành Trưởng Lão Bộ (Theravàda).
• Khuynh hướng triển khai một số điểm giáo lý và giới luật của Đức Phật, và vì có nhiều khuynh hướng luận giải bất đồng nên đã hình thành nhiều bộ phái khác nhau như: Nhất Thiết Hữu Bộ (Sabbatthivàda), Tuyết Sơn Bộ (Hemavatika), Pháp Tạng Bộ (Dhammaguttika). Về sau Nhất Thiết Hữu Bộ lại chia ra thành Ca Diếp Bộ hay Quan ẤÂm Bộ (Kasapika), Thuyết Chuyển Bộ (Sankantika), Kinh Lượng Bộ (Suttavàda), v.v…
• Khuynh hướng triển khai giáo điển một cách rộng rãi hơn, khơi mào cho tư tưởng Đại Thừa sau này, như Đại Chúng Bộ (Mahasanghika), Độc Tử Bộ (Vajjiputtaka), Nhất Thuyết Bộ (Ekabbohàrika), Kê Dận Bộ (Gokulika), Pháp Thượng Bộ (Dhammuttarika), Hiền Trụ Bộ (Bhaddayanika), Một Lâm Sơn Bộ (Channagarika), Chánh Lượng Bộ (Sammitiya), Chế Đa Sơn Bộ (Panõnõattivàda), Đa Văn Bộ (Bahulika), Thuyết Giả Bộ (Cetiyavàda), v.v…
Khuynh hướng đầu, do Trưởng Lão Bộ chủ trương, có thể xem là thời kỳ nguyên thủy III.
Sau này khi tư tưởng Đại Thừa được thiết lập thì người ta gọi khuynh hướng thứ hai và thứ ba là Tiểu Thừa.
Còn thời chúng ta thì có người còn tệ hơn nữa đã đồng hóa Nguyên Thủy với Tiểu Thừa.
Đến đây thì giọt nước đầu nguồn – tức là tính chất nguyên thủy của giáo pháp – đã lang thang qua rất nhiều sông cái, sông con, ao hồ, khe rãnh … mất rồi! Một đạo Phật như thật – thật tu, thật chứng – đã biến thành một loại triết học, triết lý cao siêu để lý luận rao bán như một món hàng tinh thần thượng đẳng!
Thời kỳ này kéo dài đến hơn 600 năm sau Phật Niết-bàn, rồi lần lượt ra đời các vị luận sư uyên bác. Đầu tiên là Ngài Mã Minh, tiếp theo là Ngài Long Thọ, sau đó nữa là các Ngài Vô Trước và Thế Thân. Họ đã cùng nhau xiển dương giáo lý Đại Thừa, nên thời kỳ này cũng gọi là thời kỳ Đại Thừa. Thời kỳ Đại Thừa kéo dài từ 600 đến 1.000 sau Phật Niết-bàn. Công việc của các vị luận sư Đại Thừa là sau khi tiếp thu có phê phán tất cả tư tưởng giáo lý Tiểu Thừa của tất cả học phái đương thời, họ rạch ròi cái đúng cái sai, viết lại giáo pháp trong những bộ luận của mình, như Ngài Mã Minh thì có bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận. Ngài Long Thọ thì có Du Già Sư Địa Luận và Trung Quán Luận, v.v… Tuy nhiên luận giải của các Ngài dù chặt chẽ đến đâu cũng không tránh khỏi đưa đến trình trạng mâu thuẫn giữa các luận phái với nhau. Nên khoảng 1.000 năm sau Phật Niết-bàn, Đại Thừa lại phân phái! Sách vở còn ghi lại hàng chục phái Đại Thừa khác nhau ra đời, về sau được gọi là thập đại môn phái. Ví dụ: Mật Tông (hay Du Già Tông, còn gọi là Kim Cang Thừa), Không Tông, Pháp Tướng Tông, Tịnh Độ Tông, v.v… Như vậy là, lại một lần nữa ngàn hoa đua nở, lại một lần nữa tư tưởng tràn bờ.
Đến chừng 1.100 năm sau Phật Niết-bàn, Thiền Tông Trung Hoa ra đời với Tổ Đạt -Ma. Đó có thể gọi là thời kỳ Thiền Tông sau 6 vị Tổ truyền thừa y bát, Thiền Tông lại chia ra làm 5 phái: Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, Qui Ngưỡng! Qua thời gian, tại Trung Hoa, bên cạnh các tông phái Thiền, lại nảy sinh các tông phái khác, mỗi tông phái chú trọng một bộ kinh.
Sự có mặt của Thiền Tông sau giai đoạn Tiểu Thừa – Đại Thừa mang ý nghĩa nào? Giá trị gì? Rồi chúng ta sẽ khảo sát sau. □
Sư Viên Minh
Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú
Bước Vào Cửa Phật – Montreal 2010
(Hình: Nga Mi Sơn Tự trên núi Mt. Emei – Trung quốc – NN sưu tầm)

Share

Leave a Reply

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Paid Links